Cần cú hích thể chế đủ mạnh cho ngân hàng và doanh nghiệp phát triển tín dụng xanh
(Banker.vn) Dù tín dụng xanh tăng trưởng nhanh hơn tín dụng chung, nhưng quy mô vẫn còn rất khiêm tốn. Theo ông Nguyễn Quốc Hùng, để đạt mục tiêu Net Zero, cần khung chính sách ổn định và cơ chế vốn dài hạn đủ mạnh cho ngân hàng.
Phát triển xanh không phải là câu chuyện mới
Ngày 24/12, Viện Chiến lược Thương hiệu và Cạnh tranh tổ chức Diễn đàn “Thị trường tín dụng và những vấn đề kinh tế vĩ mô”. Phát biểu tại Diễn đàn, ông Nguyễn Quốc Hùng – Phó Chủ tịch kiêm Tổng Thư ký Hiệp hội Ngân hàng Việt Nam cho biết, phát triển lĩnh vực xanh không phải là câu chuyện mới đối với Việt Nam.
margin: 15px auto;" />Ngay từ năm 2015, Chính phủ và Ngân hàng Nhà nước đã bắt đầu dành sự quan tâm rõ nét tới kinh tế tuần hoàn, nông nghiệp xanh và công nghệ cao, thể hiện qua hàng loạt nghị định, chỉ thị và quyết định được ban hành trong giai đoạn này. Đây được xem là nền tảng chính sách ban đầu cho quá trình hình thành tài chính xanh và tín dụng xanh trong hệ thống ngân hàng.
Bước ngoặt quan trọng diễn ra trong giai đoạn 2021–2023, khi Chính phủ ban hành các quyết định mang tính chiến lược như Quyết định số 622 và Quyết định số 1658 của Thủ tướng Chính phủ về Chiến lược quốc gia về tăng trưởng xanh giai đoạn 2021–2030, tầm nhìn đến năm 2050, hướng tới mục tiêu phát thải ròng bằng không (Net Zero).
Đặc biệt, Quyết định số 21 đã lần đầu tiên đưa ra định hướng về tiêu chí môi trường và xác định dự án đầu tư xanh, mở ra kỳ vọng tháo gỡ những vướng mắc cho các tổ chức tín dụng trong quá trình thẩm định và cấp vốn.
Tuy nhiên, theo ông Nguyễn Quốc Hùng, dù chủ trương đã có từ sớm, song các tiêu chí cụ thể để ngân hàng áp dụng vào thực tiễn cho vay vẫn chưa thực sự rõ ràng. Sự thiếu đồng bộ trong hệ thống văn bản hướng dẫn khiến nhiều ngân hàng lúng túng, đặc biệt trong việc xác định thế nào là một dự án xanh đủ điều kiện tín dụng.
Ở góc độ ngành ngân hàng, Ngân hàng Nhà nước đã thể hiện quyết tâm mạnh mẽ thông qua việc ban hành chiến lược tăng trưởng xanh của ngành, xây dựng sổ tay quản lý rủi ro môi trường và xã hội, từng bước định hướng dòng vốn tín dụng theo tiêu chí bền vững.
Nhờ đó, mức độ quan tâm của các tổ chức tín dụng đối với lĩnh vực xanh đã gia tăng rõ rệt. Nếu như năm 2017 mới chỉ có khoảng 15 ngân hàng tham gia, thì đến nay đã có gần 60 tổ chức tín dụng thường xuyên triển khai các hoạt động tín dụng xanh. Các lĩnh vực thu hút vốn chủ yếu tập trung vào công nghệ cao, nông nghiệp sạch và năng lượng tái tạo.
Nhiều ngân hàng đã chủ động lồng ghép mục tiêu xanh vào chiến lược phát triển, tiêu biểu như Agribank, BIDV với chính sách tín dụng xanh và quản lý rủi ro môi trường chuyên biệt; hay HDBank, Standard Chartered khi tích cực hợp tác với các tổ chức quốc tế như IFC, ADB để huy động nguồn vốn trung và dài hạn cho các dự án xanh.
Còn nhiều điều phải làm để hướng tới Net Zero
Dù vậy, theo ông Hùng, con số tuyệt đối vẫn cho thấy một khoảng cách rất lớn so với nhu cầu thực tế. Trong tổng dư nợ toàn nền kinh tế khoảng 18,2 triệu tỷ đồng, dư nợ tín dụng xanh mới chỉ đạt khoảng 750.000 tỷ đồng đến dưới 1 triệu tỷ đồng, chiếm tỷ trọng còn khá khiêm tốn.
Đáng chú ý, tốc độ tăng trưởng tín dụng xanh giai đoạn từ năm 2017 đến nay đạt bình quân khoảng 21%/năm, cao hơn mức tăng trưởng tín dụng chung, song do nền dư nợ thấp nên tác động lan tỏa còn hạn chế.
Theo ông Nguyễn Quốc Hùng, thách thức lớn nhất hiện nay không nằm ở quyết tâm, mà ở cơ chế chính sách và điều kiện triển khai thực tế. Để thực hiện cam kết Net Zero vào năm 2050, dòng vốn xanh không chỉ cần tăng trưởng nhanh mà phải tăng trưởng mang tính đột phá.
“Nếu muốn phát triển nhanh thì phải bền vững, mà muốn bền vững thì dứt khoát phải hướng dòng vốn vào lĩnh vực xanh. Tốc độ tăng trưởng tín dụng xanh hiện nay là chưa đủ”, ông Hùng nhấn mạnh.

Một trong những rào cản lớn là đặc thù nguồn vốn. Đầu tư xanh đòi hỏi nguồn vốn trung và dài hạn, trong khi lãi suất cho vay hiện vẫn ở mức cao so với khả năng chịu đựng của doanh nghiệp, gây khó khăn cho việc đảm bảo hiệu quả tài chính.
Bên cạnh đó, sự thiếu ổn định của chính sách, đặc biệt trong các lĩnh vực như năng lượng tái tạo, làm gia tăng rủi ro cho cả doanh nghiệp và ngân hàng. Việc điều chỉnh giá điện hoặc cơ chế hỗ trợ một cách đột ngột có thể khiến doanh nghiệp rơi vào thế bị động, ảnh hưởng trực tiếp đến khả năng trả nợ và tái đầu tư.
Ngoài ra, khung pháp lý về ESG hiện vẫn chưa hoàn chỉnh. Các tiêu chí phân loại dự án xanh chưa thống nhất, thiếu hướng dẫn cụ thể về rủi ro xã hội và rủi ro quản trị, khiến quá trình thẩm định tín dụng gặp nhiều khó khăn.
Trong khi đó, các tổ chức tín dụng vẫn phải cân đối mục tiêu lợi nhuận, nên nếu không có cơ chế ưu tiên rõ ràng, dòng vốn có xu hướng chảy vào các lĩnh vực mang lại hiệu quả nhanh hơn.
Từ thực tiễn đó, ông Nguyễn Quốc Hùng đề xuất cần sớm xây dựng cơ chế đánh giá và xếp hạng ưu tiên đối với các tổ chức tín dụng tham gia tài chính xanh, đồng thời dành một nguồn tái cấp vốn ổn định, dài hạn cho tín dụng xanh phù hợp với đặc thù đầu tư.
Ông cũng kiến nghị thành lập Quỹ bảo lãnh tín dụng xanh theo mô hình hợp tác công – tư, sớm vận hành sàn giao dịch tín chỉ carbon và mở rộng ưu đãi thuế thu nhập doanh nghiệp không chỉ cho doanh nghiệp triển khai dự án ESG mà cả các tổ chức tín dụng cho vay lĩnh vực này.
Theo ông, chỉ khi có khung chính sách ổn định, dài hạn và minh bạch, thị trường mới có thể tự huy động hiệu quả các nguồn lực trong và ngoài nước cho tăng trưởng xanh bền vững.

