Chuyển đổi số thúc đẩy phát triển kinh tế số

(Banker.vn) Chuyển đổi số đang trở thành xu hướng tất yếu trong mọi lĩnh vực. Đây vừa là yêu cầu, vừa là cơ hội giúp Việt Nam xây dựng nền kinh tế số hiện đại, bền vững.
  • Cầu nối cộng đồng doanh nghiệp tư nhân trong thực hiện Nghị quyết 68
  • Từ Tuần lễ vàng đến Nghị quyết 68: Khi chính sách bắt mạch cuộc sống
  • Gỡ rào cản, tạo động lực mới cho kinh tế tư nhân từ Nghị quyết 68

Doanh nghiệp công nghệ và khát vọng phát triển quốc gia

Trong bối cảnh toàn cầu hóa và cách mạng công nghiệp lần thứ tư lan tỏa mạnh mẽ, doanh nghiệp khoa học - công nghệ và khởi nghiệp đổi mới sáng tạo được ví như lực lượng tiên phong thúc đẩy tăng năng suất, tái cấu trúc nền kinh tế và gia tăng sức cạnh tranh quốc gia.

Nghị quyết 57-NQ/TW của Bộ Chính trị xác định phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số là động lực chính để kiến tạo lực lượng sản xuất hiện đại. Trong khi đó, Nghị quyết 68-NQ/TW nhấn mạnh nhiệm vụ phát triển kinh tế tư nhân, khơi thông nguồn lực tài chính, tạo môi trường thuận lợi cho doanh nghiệp.

Doanh nghiệp khởi nghiệp công nghệ đang tìm kiếm cơ hội tiếp cận vốn đầu tư và chính sách hỗ trợ. Ảnh minh họa

Tuy nhiên, theo Ths. Phan Thục Anh, Trường Quốc tế, Đại học Quốc gia Hà Nội, trên thực tế, tài chính vẫn là điểm nghẽn lớn nhất kìm hãm sự phát triển của doanh nghiệp khoa học - công nghệ. Khó tiếp cận tín dụng, thiếu vốn mạo hiểm, chưa có cơ chế định giá và thế chấp tài sản trí tuệ khiến nhiều doanh nghiệp khởi nghiệp phải chật vật vượt qua giai đoạn đầu. Việc tháo gỡ "nút thắt" tài chính, triển khai giải pháp đặc thù phù hợp với tinh thần Nghị quyết 57 và 68 mang ý nghĩa chiến lược để Việt Nam hiện thực hóa mục tiêu trở thành quốc gia phát triển vào năm 2045.

Ths. Phan Thục Anh chỉ ra rằng, kinh nghiệm quốc tế cho thấy, nhà nước thường giữ vai trò dẫn dắt, cung cấp vốn mồi và khung pháp lý, sau đó khuyến khích khu vực tư nhân tham gia mạnh mẽ. Mỹ có chương trình SBIR/STTR, Hàn Quốc có Startup Korea Fund, Singapore thành công với cơ chế đồng đầu tư công - tư, còn Israel nổi bật với chương trình Yozma. Các mô hình này đều dựa trên nguyên tắc: chính phủ chấp nhận rủi ro ban đầu, tạo niềm tin cho nhà đầu tư tư nhân cùng tham gia.

Ở Việt Nam, hệ sinh thái khởi nghiệp đã có những bước tiến, với hơn 3.000 startup và nhiều doanh nghiệp công nghệ lớn như Viettel, FPT, VinAI, MoMo, Sky Mavis… Tuy nhiên, vốn vẫn là “nỗi đau” chung. Năm 2021, đầu tư mạo hiểm đạt 1,5 tỷ USD, nhưng năm 2022 giảm còn 634 triệu USD.

Khảo sát của Ngân hàng Thế giới cho thấy, 69% doanh nghiệp tư nhân gặp khó khi vay tín dụng, trong khi chỉ 15% startup gọi được vốn trước khi tung sản phẩm. Còn theo khảo sát của Hiệp hội Doanh nghiệp khoa học - công nghệ Việt Nam, trong số 167 doanh nghiệp được hỏi chỉ có 6 doanh nghiệp được hưởng ưu đãi theo Nghị định 13/2019, với tổng giá trị 91 tỷ đồng. Như vậy, chính sách đã có nhưng việc thực thi còn hạn chế, thủ tục phức tạp và chưa thực sự đi vào cuộc sống.

Thách thức và giải pháp cho hành trình chuyển đổi số

Mặc dù đạt được nhiều thành quả, nhưng theo Ths. Phan Thục Anh, quá trình chuyển đổi số ở Việt Nam vẫn đối diện không ít rào cản. Hạ tầng viễn thông và công nghệ tại một số vùng sâu, vùng xa còn hạn chế, gây khó khăn cho việc phổ cập dịch vụ số. Bên cạnh đó, doanh nghiệp vừa và nhỏ chiếm đa số trong nền kinh tế vẫn lúng túng khi thiếu nguồn lực tài chính, nhân sự và kiến thức để triển khai các giải pháp công nghệ.

Một vấn đề quan trọng khác là an toàn dữ liệu và an ninh mạng. Khi hoạt động kinh tế - xã hội ngày càng phụ thuộc vào môi trường số, nguy cơ tấn công mạng, rò rỉ thông tin và gian lận điện tử ngày càng lớn, đòi hỏi hệ thống bảo mật chặt chẽ hơn. Nếu không xử lý tốt, đây có thể trở thành điểm nghẽn cản trở niềm tin của người dân và doanh nghiệp.

Để vượt qua những thách thức đó, ThS. Phan Thục Anh đưa ra một số kiến nghị cụ thể. Về phía Chính phủ, cần sớm thông qua Luật sửa đổi Luật Sở hữu trí tuệ để công nhận tài sản trí tuệ là tài sản thế chấp, dành tối thiểu 2% GDP cho nghiên cứu phát triển và thành lập Quỹ Đổi mới sáng tạo quốc gia theo mô hình quỹ mẹ - quỹ con. Các bộ, ngành liên quan cũng cần hành động đồng bộ: Bộ Khoa học và Công nghệ chủ trì triển khai Nghị quyết 57; Bộ Tài chính thực hiện ưu đãi thuế và mở rộng bảo lãnh; Ngân hàng Nhà nước phát triển sandbox tài chính - tín dụng; Bộ Khoa học và Công nghệ tăng ngân sách cho hoạt động ươm tạo công nghệ.

Đối với các tổ chức tài chính, cần thiết kế sản phẩm tín dụng đặc thù cho doanh nghiệp công nghệ, giảm phí và đơn giản thủ tục bảo lãnh, đồng thời khuyến khích quỹ đầu tư mạo hiểm trong nước hợp tác với quốc tế.

Về phía doanh nghiệp, sự chủ động đổi mới sáng tạo là yếu tố then chốt. Doanh nghiệp cần coi công nghệ số là động lực phát triển lâu dài, sẵn sàng đầu tư vào các nền tảng quản trị thông minh, marketing số và thương mại điện tử. Không chỉ vậy, xây dựng văn hóa số trong nội bộ cũng giúp nâng cao năng lực cạnh tranh bền vững.

Người dân, với vai trò là người thụ hưởng cuối cùng, cũng cần thích ứng và thay đổi. Việc học tập, rèn luyện kỹ năng số sẽ giúp mỗi cá nhân tham gia vào môi trường số một cách an toàn, hiệu quả, đồng thời trở thành lực lượng thúc đẩy quá trình chuyển đổi diễn ra nhanh hơn.

Chuyển đổi số không phải là mục tiêu ngắn hạn, mà là hành trình dài, đòi hỏi sự kiên trì và hợp tác. Thành công sẽ đến khi có sự đồng hành của tất cả các chủ thể trong xã hội. Với quyết tâm chính trị mạnh mẽ, cùng sự nỗ lực của doanh nghiệp và người dân, Việt Nam hoàn toàn có thể tận dụng cơ hội để bứt phá, xây dựng nền kinh tế số hiện đại, lấy con người làm trung tâm, hướng tới phát triển bền vững.

Việc triển khai đồng bộ các giải pháp tài chính đặc thù, nhất là cơ chế quỹ đầu tư mạo hiểm, định giá tài sản trí tuệ, tín dụng dựa trên dòng tiền và phát triển thị trường vốn công nghệ, theo tinh thần Nghị quyết 57-NQ/TW và Nghị quyết 68-NQ/TW, sẽ mở ra một giai đoạn mới cho sự bứt phá của doanh nghiệp Việt Nam, góp phần quan trọng vào công cuộc xây dựng đất nước hùng cường, thịnh vượng vào năm 2045.

Ths. Phan Thục Anh
Theo: Báo Công Thương
    Bài cùng chuyên mục