Muốn vào chuỗi toàn cầu, phải vượt chuẩn quốc tế

Là doanh nghiệp chuyên sản xuất tủ bảng điện công nghiệp, phục vụ các dự án nhà máy sản xuất, đặc biệt là khối doanh nghiệp FDI, Công ty Cổ phần Công nghiệp Bảo Minh Châu được xem là một trong những doanh nghiệp có nhiều năm kinh nghiệm trong lĩnh vực công nghiệp hỗ trợ.

margin: 15px auto;" />

Các doanh nghiệp công nghiệp hỗ trợ của Hà Nội tham gia hoạt động xúc tiến thương mại. Ảnh: N.H

Trao đổi với phóng viên Báo Công Thương, ông Nguyễn Quang Thắng, Giám đốc Công ty Cổ phần Công nghiệp Bảo Minh Châu cho biết, đến thời điểm hiện tại, doanh thu của doanh nghiệp cơ bản tương đương năm trước. Sau đại dịch Covid-19, hoạt động sản xuất, kinh doanh của công ty vẫn trong trạng thái “đi ngang”, chưa tạo được động lực tăng trưởng rõ rệt. 

Theo ông Nguyễn Quang Thắng, thách thức lớn nhất với doanh nghiệp công nghiệp hỗ trợ hiện nay không chỉ là thị trường, mà nằm ở yêu cầu ngày càng cao về tiêu chuẩn quốc tế. “Nếu doanh nghiệp Việt Nam muốn có chỗ đứng trong chuỗi cung ứng toàn cầu thì bắt buộc phải đáp ứng các tiêu chuẩn quốc tế về chất lượng, công nghệ, quản trị và môi trường. Muốn làm được điều đó, doanh nghiệp cần nguồn vốn đủ lớn để đầu tư hạ tầng, công nghệ và nhân lực”, ông Thắng nhấn mạnh.

Thực tế, doanh nghiệp Việt Nam không thiếu kinh nghiệm sản xuất. Nhiều đơn vị đã hoạt động hàng chục năm trong lĩnh vực cơ khí, điện – điện tử, chế tạo. Tuy nhiên, hạn chế lớn nhất vẫn là tiềm lực tài chính. Việc đầu tư công nghệ cao, xây dựng mặt bằng hạ tầng đạt chuẩn, phát triển đội ngũ kỹ sư, chuyên gia và các phòng thí nghiệm nghiên cứu – phát triển (R&D) đòi hỏi nguồn vốn rất lớn và dài hạn.

“Không ít sản phẩm của chúng tôi phải mang đi thử nghiệm, chứng nhận tại các thị trường quốc tế như Đức, Australia… để đạt chứng chỉ chất lượng toàn cầu. Đây là điều kiện bắt buộc nếu muốn tham gia chuỗi cung ứng của các tập đoàn đa quốc gia, nhưng chi phí cho các hoạt động này không hề nhỏ”, ông Thắng cho biết.

Không chỉ riêng tại Hà Nội, theo đại diện một doanh nghiệp gia công cơ khí chế tạo công nghiệp tại Hải Phòng, thực tế lớn nhất hiện nay là nhiều doanh nghiệp công nghiệp hỗ trợ trong nước vẫn chưa thể tham gia sâu vào chuỗi cung ứng của các doanh nghiệp FDI. Nguyên nhân đến từ nhiều yếu tố, trong đó nổi bật là hạn chế về năng lực quản trị, kinh nghiệm quốc tế và thiếu các điều kiện hỗ trợ cần thiết về vốn, mặt bằng, công nghệ.

Đáng chú ý, tỷ lệ nội địa hóa trong nhiều ngành vẫn ở mức thấp. Dù kim ngạch xuất khẩu ngành điện tử của Việt Nam đã đạt khoảng 120 tỷ USD, song đóng góp của doanh nghiệp trong nước chỉ chiếm chưa tới 5%. Điều này cho thấy, Việt Nam xuất khẩu nhiều nhưng giá trị gia tăng chủ yếu vẫn thuộc về khu vực doanh nghiệp FDI.

“Doanh nghiệp Việt Nam vẫn đứng ngoài chuỗi giá trị, thiếu cơ hội tiếp cận kinh nghiệm, vốn và mặt bằng sản xuất. Đây là thực trạng cần sớm được thay đổi nếu muốn phát triển công nghiệp hỗ trợ một cách bền vững”, đại diện doanh nghiệp gia công cơ khí chế tạo công nghiệp tại Hải Phòng nhận định.

Theo Trung tâm Hỗ trợ phát triển công nghiệp, Cục Công nghiệp (Bộ Công Thương), hiện cả nước có gần 7.000 doanh nghiệp công nghiệp hỗ trợ. Trong đó, nhóm doanh nghiệp sản xuất linh kiện, phụ tùng giữ vai trò chủ lực, cung ứng cho các ngành công nghiệp chế tạo như ô tô, xe máy, cơ khí, điện – điện tử. Một số lĩnh vực đã đạt tỷ lệ nội địa hóa tương đối cao, tạo lợi thế cạnh tranh so với hàng nhập khẩu.

Tuy nhiên, xét trên tổng thể, tỷ lệ nội địa hóa của nhiều ngành vẫn ở mức thấp, chỉ khoảng 30 – 40%, chưa đạt mục tiêu 50 – 60% theo định hướng của Chính phủ. Bên cạnh đó, năng lực cạnh tranh về giá còn hạn chế; trình độ khoa học – công nghệ của nhiều doanh nghiệp mới ở mức trung bình; khả năng ứng dụng nghiên cứu khoa học và phát triển sản phẩm mới còn yếu. 

Chính sách đã có, cần đi vào thực chất

Các chuyên gia cho rằng, Việt Nam đang đứng trước cơ hội hiếm có khi chuỗi cung ứng toàn cầu dịch chuyển, mở ra khả năng tham gia sâu hơn vào khâu sản xuất linh kiện, nguyên phụ liệu thay vì chỉ dừng ở lắp ráp. Tuy nhiên, những rào cản về tiêu chuẩn kỹ thuật, dữ liệu minh bạch, chất lượng sản phẩm và năng lực tài chính vẫn là thách thức lớn.

Hà Nội phấn đấu đến năm 2030 có khoảng 1.200 doanh nghiệp công nghiệp hỗ trợ, trong đó trên 40% doanh nghiệp có hệ thống sản xuất và sản phẩm đạt tiêu chuẩn quốc tế. Ảnh: N.H

Theo ông Nguyễn Mạnh Linh, Phó Trưởng phòng Nghiên cứu Công nghiệp, Viện Nghiên cứu Chiến lược, Chính sách Công Thương, Việt Nam đã sớm có chủ trương phát triển công nghiệp hỗ trợ, hệ thống chính sách tương đối đầy đủ. Tuy nhiên, phần lớn doanh nghiệp trong nước có quy mô nhỏ, thiếu vốn, công nghệ và năng lực quản trị, nên chưa khai thác hiệu quả cơ hội thị trường. “Sau gần 20 năm phát triển, kết nối giữa doanh nghiệp FDI và doanh nghiệp trong nước vẫn còn lỏng lẻo, chưa hình thành được các chuỗi cung ứng ổn định, bền vững”, ông Linh đánh giá.

Nhằm tháo gỡ các nút thắt này, ngày 14/7/2025, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 205/2025/NĐ-CP, sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định 111/2015/NĐ-CP về phát triển công nghiệp hỗ trợ, có hiệu lực từ ngày 1/9/2025. Nghị định mới bổ sung nhiều chính sách quan trọng về hỗ trợ ứng dụng và chuyển giao công nghệ. Theo đó, tổ chức, cá nhân nghiên cứu, đổi mới và hoàn thiện công nghệ để sản xuất sản phẩm công nghiệp hỗ trợ thuộc danh mục ưu tiên sẽ được hưởng ưu đãi từ Quỹ đổi mới công nghệ quốc gia, Quỹ phát triển khoa học và công nghệ quốc gia, Chương trình quốc gia phát triển công nghệ cao cùng các chính sách hỗ trợ khác.

Một điểm đáng chú ý là cơ chế phân cấp cấp giấy xác nhận ưu đãi: Doanh nghiệp nhỏ và vừa do UBND tỉnh, thành phố cấp; doanh nghiệp lớn do Bộ Công Thương thẩm định. Nghị định cũng bổ sung danh mục sản phẩm công nghiệp hỗ trợ ưu tiên phát triển, tạo hành lang pháp lý rõ ràng hơn cho doanh nghiệp.

Ở góc độ địa phương, ngày 10/12/2025, UBND TP. Hà Nội đã ban hành Quyết định số 6126/QĐ-UBND, phê duyệt Chương trình phát triển công nghiệp hỗ trợ giai đoạn 2026 – 2030, định hướng đến năm 2035. Theo Chương trình, Hà Nội đặt mục tiêu phát triển công nghiệp hỗ trợ theo chiều sâu, gắn với chuỗi giá trị toàn cầu, lấy doanh nghiệp làm trung tâm và Nhà nước đóng vai trò kiến tạo. Trọng tâm là tăng tính tự chủ nguồn cung linh kiện, phụ tùng, vật liệu; giảm phụ thuộc nhập khẩu; hạn chế rủi ro đứt gãy chuỗi cung ứng và nâng cao giá trị gia tăng.

Đến năm 2030, Hà Nội phấn đấu có khoảng 1.200 doanh nghiệp công nghiệp hỗ trợ, trong đó trên 40% doanh nghiệp có hệ thống sản xuất và sản phẩm đạt tiêu chuẩn quốc tế. Đến năm 2035, con số này tăng lên khoảng 1.400 doanh nghiệp, với 45% đạt chuẩn quốc tế. 

Theo ông Nguyễn Hoàng, Chủ tịch Hiệp hội Doanh nghiệp công nghiệp hỗ trợ TP. Hà Nội (HANSIBA), doanh nghiệp công nghiệp hỗ trợ của Hà Nội và cả nước đã tham gia ngày càng sâu vào chuỗi sản xuất toàn cầu. “Không còn thời kỳ doanh nghiệp Việt Nam không làm nổi con ốc vít. Hiện nay, nhiều doanh nghiệp đã cung ứng linh kiện cho các tập đoàn đa quốc gia, tham gia vào các lĩnh vực có giá trị gia tăng cao như linh kiện điện tử, thiết bị bán dẫn, phụ trợ hàng không – vũ trụ”, ông Hoàng nhấn mạnh.

Với nền tảng công nghiệp tương đối hoàn chỉnh, hệ sinh thái công nghệ cao đang hình thành và nguồn nhân lực chất lượng cao, Hà Nội được đánh giá có nhiều lợi thế để phát triển công nghiệp hỗ trợ. Nếu tận dụng tốt cơ hội và triển khai chính sách một cách thực chất, giai đoạn tới sẽ là thời điểm doanh nghiệp công nghiệp hỗ trợ Thủ đô “vươn mình về chất”, từng bước khẳng định vị thế trong chuỗi giá trị toàn cầu.

GS. Phan Đăng Tuất, Chủ tịch Hiệp hội Công nghiệp Hỗ trợ Việt Nam (VASI): Các quy định liên quan đến lĩnh vực công nghiệp hỗ trợ hiện hành chủ yếu dừng ở cấp nghị định, nằm rải rác trong nhiều luật khác nhau như dẫn tới sự thiếu đồng bộ, thậm chí “vênh” nhau về pháp lý. Điều này khiến nhiều chính sách ưu đãi khó đi vào cuộc sống. Vì vậy, cần sớm ban hành một luật riêng về công nghiệp hỗ trợ đủ mạnh, tạo hành lang pháp lý ưu tiên, tháo gỡ rào cản hành chính và thúc đẩy công nghiệp hỗ trợ phát triển thực chất.

Nguyễn Hạnh