Để nông dân không còn trắng tay sau thiên tai: Cần một "tấm khiên" bảo hiểm nông nghiệp thực chất
(Banker.vn) Dù tín dụng "tam nông" đang là điểm tựa vững chắc cho kinh tế nông thôn, nhưng lỗ hổng từ bảo hiểm nông nghiệp đang khiến ngân sách nhà nước và hệ thống ngân hàng phải gánh chịu áp lực lớn mỗi khi thiên tai, dịch bệnh đi qua. Do đó, để bảo hiểm không còn "đứng ngoài cuộc", việc sửa đổi hành lang pháp lý cho bảo hoạt động hiểm là cần thiết.
Tín dụng “tam nông” điểm tựa nông nghiệp, nông thôn
Theo báo cáo từ Ngân hàng Nhà nước, tính đến ngày 27/11/2025, dư nợ tín dụng toàn nền kinh tế đạt trên 18,2 triệu tỷ đồng, tăng 16,56% so với cuối năm 2024. Đáng chú ý, cơ cấu dòng vốn tín dụng đã có sự điều chỉnh theo hướng phù hợp hơn với định hướng phát triển các ngành, lĩnh vực ưu tiên. Tín dụng tập trung mạnh vào nông nghiệp, nông thôn với tỷ lệ khoảng 23%, doanh nghiệp nhỏ và vừa chiếm khoảng 19%. Tín dụng đối với doanh nghiệp ứng dụng công nghệ cao và công nghiệp hỗ trợ ghi nhận tốc độ tăng trưởng cao, bình quân giai đoạn vừa qua lần lượt đạt 17,51% và 19,91%.
Cùng với các nguồn vốn khác, số lượng cung cấp tín dụng nông nghiệp hiện nay khá cao, đặc biệt là tín dụng cho vay trong sản xuất nông hộ, vay theo nhóm nông dân, nhóm HTX đã trở thành nguồn tài chính thiết yếu để triển khai nhiều chương trình/dự án đặc biệt các chương trình vùng nguyên liệu sản xuất. Không chỉ giải quyết nguồn vốn mà còn tư vấn cho người dân, doanh nghiệp các cơ chế chính sách thị trường, đồng thời nâng cao hiệu quả năng suất chất lượng nông sản lúa gạo, thủy sản chất lượng cao phát thải thấp, góp phần thực hiện đột phá chiến lược về phát triển bảo vệ môi trường, biến đổi khí hậu.
margin: 15px auto;" />Bảo hiểm nông nghiệp chia sẻ rủi ro chưa phát huy hiệu quả
Tuy nhiên, phía sau bức tranh tăng trưởng tín dụng “tam nông” là những rủi ro do thiên tai, dịch bệnh đối với ngành nông nghiệp. Để hỗ trợ nông nghiệp, nông thôn phát triển, đời sống nông dân ngày càng cải thiện. Đồng thời, cùng tìm giải pháp để chuyển đổi sản xuất nông nghiệp sang kinh tế nông nghiệp, phát triển chuỗi sản xuất, chế biến và tiêu thụ được bền vững. Đồng thời, cần gắn bảo hiểm vay vốn cho người dân để tăng cường các hiệu quả, bảo vệ sức khỏe khi tham gia sản xuất hay những tác động môi trường trong sử dụng hóa chất có thể để lại rủi ro không mong muốn. Đây cũng là một điểm sáng tích cực trong hoạt động vay vốn đến người dân.
Bảo hiểm nông nghiệp là công cụ quan trọng giúp nông dân giảm thiếu rủi ro, nhưng Nghị định số 58/2018/NĐ-CP của Chính phủ về bảo hiểm nông nghiệp đã bộc lộ một số hạn chế sau 5 năm triển khai. Dù đã triển khai khá lâu và được duy trì mức hỗ trợ phí cao (90% cho hộ nghèo/cận nghèo và 20% cho nhóm khác) nhưng số lượng hộ nông dân tham gia vẫn còn rất khiêm tốn, chưa tạo được sức lan tỏa rộng khắp trong sản xuất nông nghiệp.
Số liệu báo cáo từ ngành chức năng kết quả triển khai lại rất hạn chế đó là bảo hiểm cây lúa và trâu/bò chỉ được triển khai nhỏ lẻ tại vài tỉnh. Giai đoạn 2022 - 2025 cả nước chỉ còn 1 tỉnh (Tuyên Quang) duy trì, áp dụng duy nhất cho nuôi trâu, bò. Số hộ tham gia giảm mạnh từ 16.731 hộ (giai đoạn 2019 - 2021) xuống còn 3.630 hộ, với tổng phí bảo hiểm giảm từ gần 7 tỷ đồng xuống còn 2,6 tỷ đồng. Còn tại tỉnh An Giang chỉ có khoảng 16.700 hộ tham gia trên tổng số 9 triệu hộ sản xuất nông nghiệp trong 3 năm đầu phát động.
Thực tế cho thấy, thiên tai liên tiếp xảy ra, nhưng công cụ bảo hiểm gần như “đứng ngoài cuộc” trước rủi ro của nông nghiệp Việt Nam. Minh chứng là đợt mưa lũ vừa qua tại Đắk Lắk, Gia Lai, Khánh Hòa, Lâm Đồng đã gây thiệt hại lên tới trên 8.900 tỷ đồng.
Theo đó, gánh nặng tài chính cuối cùng vẫn đặt vào ngân sách nhà nước phải chi trả hàng chục nghìn tỷ đồng mỗi năm cho các hoạt động cứu trợ và hỗ trợ tình thế, tạo áp lực lớn lên nguồn vốn đầu tư tăng trưởng.
Người dân là đối tượng chịu ảnh hưởng trực tiếp, tài sản chắt chiu cả đời bị mất mát, “làm đứt gãy cả một ước vọng về tương lai”. Những khó khăn đó, hệ thống ngân hàng buộc phải chấp nhận rủi ro, dẫn đến NHNN.">nợ xấu gia tăng trong lĩnh vực nông nghiệp.
TS. Trần Thanh Long, Giám đốc Học viên Ngân hàng, Phân viện Phú Yên nêu quan điểm: “Hạn chế trong chính sách khiến bảo hiểm nông nghiệp không phát huy được vai trò vốn có, được nhiều người chỉ ra, có nguyên nhân được nhìn nhận đã lâu, nhưng không khắc phục được. Cụ thể sản phẩm không bao phủ rủi ro: Nhiều sản phẩm được thiết kế không bao phủ rủi ro dịch bệnh, khiến người nuôi trồng bị ảnh hưởng nhưng không được thụ hưởng (ví dụ: nuôi tôm,…).
Mức chi trả thấp: Mức chi trả hỗ trợ còn rất thấp so với tổn thất nặng nề do thiên tai, giảm động lực tham gia.
Thiếu dữ liệu rủi ro: Dữ liệu và bản đồ rủi ro chưa đầy đủ, gây khó khăn cho việc định lượng thiệt hại và thiết kế sản phẩm bảo hiểm phù hợp thực tiễn, khiến doanh nghiệp “không thiết tha, còn ngần ngại” tham gia.
Thực tiễn triển khai cho thấy, chính sách bảo hiểm nông nghiệp hiện không còn phù hợp với điều kiện thực tế sản xuất nông nghiệp, đặc thù của các vùng miền, địa phương, cũng như chưa bắt kịp với xu thế quốc tế hiện nay.
Theo PGS,TS. Phạm Thị Hoàng Anh, Phó Giám đốc Phụ trách Ban điều hành Học viện Ngân hàng, kinh nghiệm quốc tế cho thấy sự hỗ trợ mạnh mẽ của Nhà nước, đi kèm với thiết kế sản phẩm phù hợp, là chìa khóa thành công.
Tại Nhật Bản, nước này áp dụng cơ chế tương trợ. Đó là bảo hiểm nông nghiệp được thực hiện thông qua hệ thống tương trợ nông nghiệp (NOSAI) do nông dân thành lập ở các địa phương, tạo ra quỹ dự trữ chung và chi trả khi có thiệt hại. Chính phủ chịu trách nhiệm tái bảo hiểm và trợ cấp khoảng 50% phí bảo hiểm tương, cùng với hỗ trợ chi phí hành chính.
Hệ thống này là trọng tâm trong các biện pháp đối phó với thiên tai, nhằm ổn định quản lý trang trại và phát triển sản xuất nông nghiệp.
Còn tại Hàn Quốc, chính sách bảo hiểm toàn diện được áp dụng. Chính phủ và chính quyền địa phương hỗ trợ 50 - 70% phí bảo hiểm, thậm chí lên đến 80% tại các khu vực rủi ro cao.
Sau khi Đạo luật Bảo hiểm Nông nghiệp có hiệu lực năm 2001, tỷ lệ tham gia đã tăng nhanh, đạt gần 50% hộ trồng trọt và hơn 94% hộ chăn nuôi vào năm 2024. Chính sách không chỉ giảm gánh nặng tài chính mà còn khuyến khích nông dân đầu tư công nghệ và sản xuất bền vững, giúp nông dân vững vàng hơn trước thời tiết thất thường.
Để chuyển gánh nặng rủi ro từ ngân sách sang công cụ bảo hiểm, PGS,TS. Phạm Thị Hoàng Anh đề xuất giải pháp, cụ thể:
Thứ nhất, cần hoàn thiện chính sách, nâng mức hỗ trợ phí cho đồng bào dân tộc thiểu số và các đối tượng dễ bị tổn thương lên 20 - 50% (tham khảo mô hình Nhật Bản, Hàn Quốc).
Thứ hai, đưa bảo hiểm trở thành một phần của hệ sinh thái tín dụng nông nghiệp, phát triển các sản phẩm bảo hiểm vi mô chi phí thấp.
Thứ ba, các doanh nghiệp bảo hiểm thiết kế sản phẩm linh hoạt, bao phủ cả rủi ro dịch bệnh. Đồng thời, Nhà nước cần đầu tư vào dữ liệu rủi ro và bản đồ rủi ro để định lượng và định giá bảo hiểm chính xác hơn.
Thứ tư, đảm bảo doanh nghiệp “giải quyết nhanh chế độ bảo hiểm cho người dân” để củng cố niềm tin và thúc đẩy sự tham gia.
ThS.Trần Trọng Triết – ThS. Nguyễn Văn Hoàng

