Khi hàng không trở thành cầu nối bản sắc quốc gia với thế giới
Chiều 14/10, tại Hội thảo khoa học “Vai trò của doanh nghiệp nhà nước trong các ngành trọng yếu của nền kinh tế: Góc nhìn từ ngành hàng không”, PGS, TS. Lê Hải Bình, Ủy viên Dự khuyết Trung ương Đảng, Thứ trưởng Thường trực Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch, trình bày tham luận chuyên đề “Định vị bản sắc quốc gia trong không gian toàn cầu: Góc nhìn từ ngành hàng không như một thiết chế văn hóa đối ngoại đặc thù”.
Theo Thứ trưởng Lê Hải Bình, thế kỷ XXI là thời đại của kết nối, trải nghiệm và bản sắc. Ông cho rằng, việc định vị hình ảnh quốc gia ngày nay không chỉ giới hạn trong các thiết chế văn hóa truyền thống như bảo tàng, lễ hội hay nghệ thuật biểu diễn, mà đang mở rộng sang những lĩnh vực kỹ thuật, kinh tế hiện đại như hàng không. Việc tiếp cận ngành hàng không như một thiết chế văn hóa không chỉ mở rộng phạm vi của văn hóa đối ngoại, mà còn đặt ra yêu cầu chiến lược về tích hợp bản sắc vào các lĩnh vực dịch vụ hiện đại, từ đó nâng cao năng lực cạnh tranh mềm và khẳng định vị thế quốc gia trong không gian toàn cầu.

PGS, TS. Lê Hải Bình, Ủy viên Dự khuyết Trung ương Đảng, Thứ trưởng Thường trực Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch
Theo PGS, TS. Lê Hải Bình, trong không gian toàn cầu hóa, các quốc gia không chỉ cạnh tranh về kinh tế, công nghệ hay quân sự, mà còn về hình ảnh, giá trị và ảnh hưởng mềm. Bản sắc quốc gia trở thành yếu tố nhận diện chiến lược giúp quốc gia duy trì sự khác biệt, khẳng định vị thế và xây dựng niềm tin trong cộng đồng quốc tế.
Thứ trưởng cho biết bản sắc không phải là khái niệm thuần túy văn hóa, mà là hệ thống giá trị tổng hợp bao gồm lịch sử, ngôn ngữ, tín ngưỡng, biểu tượng, lối sống và cách ứng xử quốc tế. Bản sắc không còn là phạm trù tĩnh, bất biến mà trở thành cấu trúc động, vừa được kế thừa vừa được kiến tạo trong quá trình tương tác và cạnh tranh toàn cầu.
Ông nhấn mạnh rằng thế giới hiện nay đang vận hành theo trật tự đa cực, nơi nhiều trung tâm quyền lực cùng tồn tại. Trong bối cảnh đó, bản sắc quốc gia trở thành yếu tố then chốt để duy trì sự khác biệt và tạo dấu ấn trong tâm trí cộng đồng quốc tế. Một quốc gia có bản sắc rõ nét là quốc gia có khả năng tự định vị mình trong thế giới đa chiều, không bị hòa lẫn trong dòng chảy toàn cầu hóa.
PGS, TS. Lê Hải Bình chỉ rõ, bản sắc quốc gia không phải tập hợp tính chất vốn dĩ và bất biến, mà là cấu trúc xã hội - lịch sử được hình thành và tái biểu diễn. Bản sắc chứa đựng ba chiều cơ bản gồm kho tàng tri thức lịch sử, hệ giá trị biểu tượng và thực hành xã hội. Trong thế giới toàn cầu hóa, bản sắc vừa là đối tượng nội hàm của nhận thức dân tộc, vừa là đối tượng mà cộng đồng quốc tế nhận dạng, do đó nó vừa mang tính nội sinh vừa mang tính quan hệ.
Thứ trưởng phân tích, văn hóa đối ngoại là bộ phận cấu thành của chính sách đối ngoại hiện đại, không chỉ là hoạt động giao lưu nghệ thuật hay giới thiệu văn hóa dân tộc, mà còn là chiến lược tổng thể nhằm lan tỏa giá trị quốc gia, xây dựng hình ảnh tích cực và tạo dựng sự đồng thuận quốc tế. Ông cho rằng văn hóa đối ngoại là hình thức ngoại giao sử dụng văn hóa làm công cụ để thiết lập và phát triển quan hệ quốc tế, hướng tới các mục tiêu lợi ích quốc gia.
Theo PGS, TS. Lê Hải Bình, mối quan hệ giữa bản sắc quốc gia và văn hóa đối ngoại là mối quan hệ hữu cơ. Bản sắc cung cấp nguyên liệu văn hóa để đối ngoại hóa, còn văn hóa đối ngoại biến những nguyên liệu ấy thành sản phẩm ký hiệu có thể lan tỏa trên bình diện quốc tế. Bản sắc cung cấp nội dung, văn hóa đối ngoại tạo ra kênh lan tỏa, cùng góp phần xây dựng hình ảnh và vị thế quốc gia.
Ông cho rằng nếu bản sắc chỉ tồn tại trong nội địa mà không được truyền tải ra ngoài, nó sẽ trở nên khép kín, khó phát huy giá trị trong cạnh tranh toàn cầu. Ngược lại, nếu văn hóa đối ngoại chỉ chú trọng quảng bá mà thiếu nền tảng bản sắc vững chắc, nó sẽ trở nên hời hợt và thiếu chiều sâu. Do đó, sự kết hợp hài hòa giữa bản sắc và văn hóa đối ngoại là điều kiện tiên quyết để quốc gia vừa giữ gìn giá trị riêng, vừa gia tăng sức ảnh hưởng trong không gian toàn cầu.
Thứ trưởng đồng thời chỉ ra những nghịch lý trong mối quan hệ này như nghịch lý giữa tính xác thực và tính thực dụng khi bản sắc bị sử dụng để phục vụ lợi ích ngoại giao và kinh tế, hay xung đột giữa đồng nhất hóa và đa nguyên khi chiến lược văn hóa đối ngoại thường gắn với hình ảnh đơn nhất. Bên cạnh đó là yếu tố quyền lực khi các quốc gia mạnh có khả năng áp đặt câu chuyện của mình trên trường quốc tế, trong khi các quốc gia nhỏ hơn phải cạnh tranh gay gắt để xuất hiện trên bản đồ biểu tượng toàn cầu.
Theo PGS, TS. Lê Hải Bình, chính sách văn hóa hiệu quả là chính sách biết bảo vệ tính đa dạng nội sinh của bản sắc, đồng thời biến những yếu tố đó thành tài sản biểu tượng có sức thuyết phục trong không gian toàn cầu.
Tiếp cận ngành hàng không như một thiết chế văn hóa đối ngoại đặc thù
Theo PGS, TS. Lê Hải Bình, trong bối cảnh toàn cầu hóa, khi các quốc gia cạnh tranh không chỉ về kinh tế, công nghệ hay địa chính trị mà còn về bản sắc và hình ảnh quốc tế, việc định vị bản sắc quốc gia trở thành một chiến lược mềm có ý nghĩa quan trọng. Văn hóa đối ngoại, với tư cách là lĩnh vực giao thoa giữa ngoại giao, truyền thông và sáng tạo, ngày càng đóng vai trò trung tâm trong việc xây dựng hình ảnh quốc gia, tạo dựng niềm tin và thúc đẩy kết nối xuyên biên giới.
Thứ trưởng cho biết, bên cạnh các thiết chế văn hóa truyền thống như viện văn hóa, trung tâm nghệ thuật, học viện ngôn ngữ, ngành hàng không nổi lên như một thiết chế văn hóa đối ngoại đặc thù, có khả năng lan tỏa bản sắc quốc gia một cách trực tiếp và thường nhật. Ngành hàng không không chỉ là lĩnh vực vận tải hiện đại kết nối các không gian quốc gia, mà còn là cầu nối biểu tượng, nơi bản sắc quốc gia được trình hiện sống động qua từng chi tiết nhỏ như logo, màu sắc, đồng phục, khẩu hiệu, phong cách phục vụ, thực đơn trên máy bay và cách chào hỏi.
PGS, TS. Lê Hải Bình nhấn mạnh, mỗi chuyến bay không đơn thuần là hành trình di chuyển, mà là không gian văn hóa di động, nơi hành khách quốc tế tiếp xúc trực tiếp với hình ảnh quốc gia qua trải nghiệm đa giác quan. Ông chỉ rõ bốn đặc điểm khiến hàng không trở thành thiết chế văn hóa đối ngoại đặc thù gồm tính toàn cầu, tính thường nhật, tính đa giác quan và tính biểu tượng.
Theo Thứ trưởng, máy bay mang hình ảnh biểu trưng của đất nước, đồng phục tiếp viên phản ánh văn hóa dân tộc, khẩu hiệu thể hiện tinh thần quốc gia. Ông nêu ví dụ, Vietnam Airlines đã khẳng định vai trò là cầu nối văn hóa giữa Việt Nam và thế giới thông qua biểu tượng hoa sen, đồng phục áo dài và thực đơn mang đậm bản sắc Việt. Những biểu tượng này không chỉ truyền tải thông tin, mà còn tạo ra cảm xúc, niềm tin và sự kết nối.
PGS, TS. Lê Hải Bình cho rằng, khi ngành hàng không được nhìn nhận như một thiết chế văn hóa, nó sẽ không chỉ là phương tiện vận tải, mà còn là không gian biểu tượng, là nền tảng kết nối và là công cụ chiến lược để định vị bản sắc quốc gia trong không gian toàn cầu.