Mức độ tận dụng FTA chênh lệch
Theo báo cáo của Bộ Công Thương, tính đến đầu năm 2025, thế giới có khoảng 328 FTA có hiệu lực, tăng mạnh so với 98 FTA vào năm 2000. Đến nay, Việt Nam đã ký kết và thực thi 17 FTA với nhiều đối tác lớn trên thế giới, trong đó có các FTA thế hệ mới như CPTPP, EVFTA, UKVFTA...
Theo đánh giá, trong thời gian qua, cộng đồng doanh nghiệp trong nước đã thực thi, tận dụng hiệu quả các FTA mà Việt Nam đã ký kết, góp phần quan trọng vào việc thực hiện các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội. Năm 2024, tổng kim ngạch xuất nhập khẩu đạt gần 800 tỷ USD; góp phần đưa Việt Nam từ đất nước nghèo khổ vươn lên thành nước đang phát triển, gắn kết với các quốc gia trên thế giới. Năm 2025, dự kiến quy mô tổng kim ngạch xuất nhập khẩu của cả nước tiếp tục lập kỷ lục mới, đạt trên 900 tỷ USD.
“Việc triển khai và thực thi hiệu quả các FTA không chỉ là để thực hiện nghiêm túc các cam kết quốc tế mà Việt Nam đã đưa ra, mà còn là động lực thúc đẩy cải cách trong nước, mở rộng thị trường cho hàng hóa, dịch vụ, nâng cao năng lực cạnh tranh của nền kinh tế”, Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính phát biểu, đánh giá trong Lễ công bố Bộ chỉ số FTA Index năm 2024 diễn ra hồi tháng 4/2025.
margin: 15px auto;" />Mức độ tận dụng và thực thi các FTA vẫn có sự chênh lệch, không đồng đều giữa các địa phương, doanh nghiệp. Ảnh: Ngọc Anh
Dù vậy, theo các chuyên gia, mức độ tận dụng và thực thi các FTA vẫn có sự chênh lệch, không đồng đều giữa các địa phương, doanh nghiệp, đặc biệt là khối doanh nghiệp vừa và nhỏ. Không chỉ vậy, các chuyên gia còn cho rằng, mức độ thực thi, tận dụng giữa các FTA cũng không đồng đều.
Ông Ngô Chung Khanh - Phó Vụ trưởng Vụ Chính sách thương mại đa biên, Bộ Công Thương biết, việc tận dụng các FTA hiện chỉ đạt trung bình 32-33%. Cụ thể, CPTPP khoảng 16%, UKVFTA khoảng 38%, EVFTA khoảng 35%. Nguyên nhân xuất phát từ cả phía doanh nghiệp lẫn cơ quan quản lý.
Phía doanh nghiệp khó khăn trong tiếp cận thông tin thị trường, thiếu nguồn lực, vốn, công nghệ... Cơ quan quản lý nhà nước thì thiếu các chương trình hỗ trợ riêng, thiếu cán bộ chuyên trách về hội nhập kinh tế quốc tế.
Từ thực tế doanh nghiệp, ông Trương Văn Cẩm- Phó Chủ tịch Hiệp hội Dệt may Việt Nam chia sẻ: “Với CPTPP, ngành chúng tôi mới sử dụng khoảng 15%; EVFTA khoảng 30 - 35%”. Cũng theo ông Cẩm, doanh nghiệp còn gặp khó khăn về nguyên phụ liệu, trong đó có vấn đề về vải, dệt, nhuộm... thậm chí rào cản đến từ chính những quy tắc xuất xứ trong các FTA.
Đề xuất doanh nghiệp được tự chứng nhận xuất xứ
Và thực tế trong suốt thời gian qua, trong quá trình triển khai thực thi, tận dụng FTA của cộng đồng doanh nghiệp trong nước, các cơ quan quản lý tham mưu chính sách trong đó có Bộ Công Thương đã liên tục nhấn mạnh, khuyến doanh nghiệp xuất khẩu phải gia tăng tỷ lệ tận dụng ưu đãi của các FTA, trong đó có việc đáp ứng quy tắc xuất xứ tốt hơn và khai thác tối đa thị trường các nước thành viên, nhất là trong bối cảnh kinh tế thế giới biến động liên tục, không ngừng.
Trong báo cáo tổng kết 5 năm Hiệp định EVFTA có hiệu lực đối với Việt Nam và Liên minh châu Âu do Hiệp hội Doanh nghiệp châu Âu tại Việt Nam (EuroCham) công bố, Phó Chủ tịch EuroCham Jean-Jacques Bouflet đã nhấn mạnh, một trong những thách thức lớn nhất trong quá trình thực thi EVFTA hiện nay là quy tắc xuất xứ - yếu tố then chốt để doanh nghiệp có thể tiếp cận các ưu đãi thuế quan.

Phó Chủ tịch EuroCham Jean-Jacques Bouflet đề xuất triển khai cơ chế đăng ký điện tử và cho phép doanh nghiệp tự chứng nhận xuất xứ. Ảnh: Ngọc Quỳnh
Theo Phó Chủ tịch Jean-Jacques Bouflet, dù đóng vai trò chiến lược trong việc thúc đẩy thương mại công bằng, minh bạch, nhưng trên thực tế, việc đáp ứng đầy đủ các tiêu chí xuất xứ không hề đơn giản.
Phần lớn các mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam vẫn phụ thuộc đáng kể vào nguyên phụ liệu nhập khẩu từ các nước thứ ba. Mặc dù EVFTA có cơ chế cộng gộp cho phép tính xuất xứ từ một số quốc gia đối tác, nhưng quy trình chứng từ phức tạp, cùng với chuỗi cung ứng còn phân mảnh, đang khiến nhiều doanh nghiệp gặp khó khăn trong việc chứng minh xuất xứ hợp lệ.
Trong bối cảnh môi trường thương mại toàn cầu ngày càng phức tạp, giấy chứng nhận xuất xứ (C/O) đã trở thành công cụ không thể thiếu giúp doanh nghiệp đảm bảo tuân thủ quy định, tận dụng ưu đãi thuế quan và xây dựng niềm tin với đối tác quốc tế. Hiện có tới 56% doanh nghiệp châu Âu tại Việt Nam nộp chứng từ C/O định kỳ hằng tháng - một tỷ lệ cho thấy tầm quan trọng ngày càng lớn của công cụ này trong hoạt động xuất khẩu.
Chỉ riêng trong năm 2024, Việt Nam đã cấp hơn 1,8 triệu C/O ưu đãi tương đương giá trị xuất khẩu trên 100 tỷ USD. So với năm 2023, con số này tăng 18% về lượng và 28% về giá trị, chiếm khoảng 28% tổng kim ngạch xuất khẩu sang các thị trường có hiệp định FTA. Đáng chú ý, xuất khẩu sang EU trong cùng năm đã đạt mức cao nhất từ trước đến nay, với 51,7 tỷ USD, tăng trưởng 18,4% so với cùng kỳ năm trước, phản ánh rõ xu hướng tận dụng hiệu quả EVFTA trong thương mại song phương.
Từ tháng 5 năm 2025, Việt Nam đã tập trung hóa quy trình cấp C/O và đang hướng đến xây dựng một nền tảng kỹ thuật số quốc gia để thúc đẩy hơn nữa dòng chảy thương mại. Dù một số doanh nghiệp đã nhận được C/O trong vòng chưa đầy 24 giờ, nhiều đơn vị khác vẫn phải chờ đợi hơn một tuần, gây tắc nghẽn dòng vốn và chậm tiến độ giao hàng.
Trước thực trạng này, các doanh nghiệp châu Âu kêu gọi cải thiện thủ tục theo hướng minh bạch, đơn giản và hiệu quả hơn, như triển khai cơ chế đăng ký điện tử và cho phép doanh nghiệp tự chứng nhận xuất xứ. Những đổi mới này không chỉ giúp tháo gỡ các điểm nghẽn hiện tại mà còn củng cố niềm tin vào hiệu quả lâu dài của EVFTA.
Lãnh đạo EuroCham khuyến nghị, mỗi doanh nghiệp cần chủ động tìm hiểu quy tắc xuất xứ của từng thị trường, lưu trữ hồ sơ đầy đủ và chỉ sử dụng nguồn thông tin chính thống để tránh rủi ro. Quy tắc xuất xứ chính là sợi dây nối giữa chính sách thương mại và năng lực sản xuất thực tế.
Phó Chủ tịch EuroCham Jean-Jacques Bouflet nhấn mạnh, một trong những thách thức lớn nhất trong quá trình thực thi EVFTA hiện nay là quy tắc xuất xứ - yếu tố then chốt để doanh nghiệp có thể tiếp cận các ưu đãi thuế quan.

