Những tín hiệu tích cực từ thực thi FTA
Việt Nam xác định hội nhập kinh tế quốc tế, đặc biệt là thông qua các hiệp định thương mại tự do (FTA) chính là một cánh cửa quan trọng kết nối Việt Nam với thế giới với tinh thần lợi ích hài hòa, rủi ro chia sẻ. 17 FTA đã ký kết với trên 60 nền kinh tế hàng đầu thể hiện vai trò, vị thế của Việt Nam, đồng thời cho thấy sự tin tưởng của bạn bè quốc tế đối với Việt Nam.
Việc triển khai và thực thi hiệu quả các FTA không chỉ để thực hiện nghiêm túc các cam kết quốc tế mà Việt Nam đã đưa ra, mà còn là động lực thúc đẩy cải cách trong nước, mở rộng thị trường cho hàng hóa, dịch vụ, nâng cao năng lực cạnh tranh của nền kinh tế.

Hội nhập kinh tế quốc tế và việc tham gia vào các FTA đã mang lại hiệu quả tích cực cho tăng trưởng kinh tế
Trong thời gian qua, hội nhập kinh tế quốc tế và việc tham gia vào các FTA đã mang lại hiệu quả, góp phần quan trọng vào việc thực hiện các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội; riêng năm 2024, tổng kim ngạch xuất nhập khẩu đạt gần 800 tỷ USD; góp phần đưa Việt Nam từ đất nước nghèo khổ vươn lên thành nước đang phát triển, gắn kết với các quốc gia trên thế giới. Đồng thời, quá trình hội nhập kinh tế quốc tế vẫn còn nhiều nhiều khó khăn, vướng mắc, đặt ra nhiều thách thức mới.
Chính vì vậy, nhằm hỗ trợ tốt nhất cho doanh nghiệp, địa phương thực thi hiệu quả các FTA, Chính phủ đã chỉ đạo, giao Bộ Công Thương triển khai, xây dựng và công bố Bộ chỉ số đánh giá kết quả thực hiện các hiệp định thương mại tự do (FTA Index).
Trong quá trình khảo sát, hoàn thiện Bộ chỉ số FTA Index, Bộ Công Thương ghi nhận những tín hiệu tích cực từ việc thực thi, tận dụng ưu đãi thuế quan từ các FTA của doanh nghiệp, địa phương. Cụ thể:
Thứ nhất, việc tiếp cận thông tin về các FTA của doanh nghiệp Việt Nam đã có những thành công nhất định về chiều rộng khi đại đa số doanh nghiệp đều đã từng nghe đến một hoặc một số FTA (tùy theo đặc điểm địa phương mà doanh nghiệp sẽ quan tâm đến các FTA khác nhau).
Thứ hai, các doanh nghiệp đã nhận thức được các cơ quan đầu mối ở cả trung ương và địa phương trong việc cung cấp thông tin về các FTA (chủ yếu là Bộ Công Thương và Sở Công Thương các địa phương).
Thứ ba, các hình thức cung cấp thông tin FTA tại các địa phương khá đa dạng, tiếp cận được đến các doanh nghiệp, từ các sự kiện, hội nghị hội thảo, tập huấn đến các tài liệu, cổng/trang thông tin điện tử.
Thứ tư, về cơ bản, khả năng tiếp cận các văn bản pháp luật thực thi các FTA của doanh nghiệp được đảm bảo, bao gồm cả biểu thuế ưu đãi đặc biệt theo FTA và quy tắc xuất xứ.
Thứ năm, các doanh nghiệp đã bắt đầu tận dụng được các ưu đãi với các mức độ khác nhau phụ thuộc vào ngành hàng, vào địa phương và theo từng hiệp định. Mức độ tận dụng lớn nhất là các cam kết về cắt giảm thuế quan, xuất xứ hàng hóa và thuận lợi hóa thương mại.
Thứ sáu, các doanh nghiệp đã bắt đầu nhận thức được các cam kết về phát triển bền vững, đặc biệt là các cam kết và lao động, cam kết về môi trường và đã có sự chuẩn bị nhất định cho việc thực thi các cam kết này.
Đo lường mức độ hiểu biết về phát triển bền vững
Đáng chú ý, trong Bộ chỉ số FTA Index do Bộ Công Thương phối hợp công bố hồi tháng 4/2025 vừa qua, một trong những nội dung được đông đảo cộng đồng doanh nghiệp trong và ngoài nước quan tâm, đánh giá cao đó chính chương về “Phát triển bền vững”.
Tại đây, Bộ Công Thương - đơn vị chủ trì, xây dựng Bộ Chỉ số FTA Index đã thực hiện khảo sát theo từng chủ đề, lĩnh vực liên quan đến “Phát triển bền vững”, thực thi các quy định, điều khoản phát triển bền vững trong quá trình thực thi các FTA.

Kết quả khảo sát mức độ hiểu biết về các cam kết liên quan đến phát triển bền vững trong các FTA thế hệ mới
Cụ thể, đối với kết quả khảo sát về tiêu chí “Nhận biết quy định về phát triển bền vững”, kết quả khảo sát của Bộ Công Thương cho thấy: Trong lĩnh vực lao động và môi trường, tỷ lệ doanh nghiệp “hiểu một phần” chiếm gần 39%, trongkhi tỷ lệ “hiểu đầy đủ và rõ ràng” chiếm khoảng 19 - 20%.
Đối với các quy định về bảo vệ tài nguyênrừng, tình hình khả quan hơn đôi chút với 14.6% doanh nghiệp hiểu rõ cam kết, tuy nhiên vẫn cómột bộ phận doanh nghiệp không nắm bắt được thông tin (13,1%).
Theo loại hình doanh nghiệp, doanh nghiệp nhà nước có mức độ nhận thức tốt nhất, đặc biệt trong lĩnh vực lao động và môi trường, với tỷ lệ “hiểu rõ” cao hơn so với doanh nghiệp ngoài nhà nước và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài.
Đối với tiêu chí “mức độ ảnh hưởng của việc tuân thủ các cam kết phát triển bền vững”, kết quả khảo sát của Bộ Công Thương cũng chỉ rõ: Trong các lĩnh vực lao động và môi trường, hơn 60% doanh nghiệp cho rằng các cam kết này “có ảnh hưởng” hoặc “ảnh hưởng lớn” đến hoạt động kinh doanh. Cụ thể, 23,3% đánh giá “ảnh hưởng lớn” trong lĩnh vực lao động và 24,3% trong môi trường.

Trong lĩnh vực lao động và môi trường, tỷ lệ doanh nghiệp “hiểu một phần” chiếm gần 39%
Tuy nhiên, đối với các lĩnh vực như bảo vệ tài nguyên rừng hay quản lý sinh vật biển, tỷ lệ doanh nghiệp cho rằng “không ảnh hưởng” hoặc “ít ảnh hưởng” lại tương đối cao, khoảng 20 - 21%.
Xét theo loại hình, doanh nghiệp nhà nước có xu hướng đánh giá mức độ ảnh hưởng của các cam kết phát triển bền vững cao hơn: 21,7% doanh nghiệp nhà nước đánh giá “ảnh hưởng rất lớn” trong lĩnh vực lao động và 26,1% trong môi trường. Ngược lại, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài và doanh nghiệp ngoài nhà nước đánh giá mức độ ảnh hưởng thấp hơn và có tỷ lệ đánh giá “không ảnh hưởng” cao hơn trong các lĩnh vực như quản lý nguồn sinh vật biển và bảo vệ tài nguyên rừng.
Đối với “mức độ chuẩn bị cho việc tuân thủ các cam kết phát triển bền vững”. Ở tiêu chí này, Bộ Chỉ số FTA Index cũng chỉ rõ mức độ chuẩn bị, doanh nghiệp có sự sẵn sàng cao nhất trong lĩnh vực lao động và môi trường là hơn 25% doanh nghiệp đã tuân thủ và khoảng 21% sẵn sàng tuân thủ.
Trong khi đó, ở các lĩnh vực như bảo vệ tài nguyên rừng, đảm bảo đa dạng sinh học và quản lý bền vững nguồn sinh vật biển, tỷ lệ doanh nghiệp “chưa chuẩn bị” dao động từ 33% đến trên 40%.
Xét theo loại hình, doanh nghiệp nhà nước vẫn dẫn đầu về mức độ chuẩn bị với tỷ lệ “đã tuân thủ” cao hơn đáng kể (25,5 - 27,7%), trong khi doanh nghiệp FDI và doanh nghiệp ngoài nhà nước có tỷ lệ “chưa chuẩn bị” cao, đặc biệt là ở lĩnh vực quản lý sinh vật biển (trên 40%).
Đối với khảo sát về "chương trình hỗ trợ thực hiện phát triển bền vững". Trong đó, về hiệu quả hỗ trợ của Cơ quan quản lý nhà nước địa phương đối với các vấn đề phát triển bền vững, trong lĩnh vực lao động, có 9,5% doanh nghiệp đánh giá “rất hiệu quả”, 36,1% đánh giá “hiệu quả”, 41,4% đánh giá “bình thường” và chỉ 2% đánh giá “không hiệu quả”. Trong lĩnh vực môi trường, tỷ lệ tương ứng là 10,1%, 36,8%, 40,5% và 1,9%.
Trong lĩnh vực đa dạng sinh học, 28,4% đánh giá “Hiệu quả” và 6,1% đánh giá “Rất hiệu quả”. Tương tự, trong lĩnh vực quản lý nguồn sinh vật biển, 27,8% đánh giá “Hiệu quả” và 6,0% đánh giá “Rất hiệu quả”. Lĩnh vực bảo vệ tài nguyên rừng có tỷ lệ đánh giá “Hiệu quả” khá cao, đạt 30,3%.
Xét theo hiệu quả của từng loại hình hỗ trợ, các chương trình như cung cấp tài liệu, hội thảo, kết nối cơ quan đầu mối... được đánh giá tích cực nhất.
Bộ chỉ số FTA Index 2024 được xây dựng theo chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ và là kết quả nỗ lực phối hợp chặt chẽ, hiệu quả giữa Bộ Công Thương với các bộ, ngành, địa phương, các hiệp hội ngành hàng và doanh nghiệp với mục đích nâng cao hơn nữa hiệu quả thực thi các FTA của Việt Nam, góp phần thực hiện thắng lợi mục tiêu về tăng trưởng kinh tế, đầu tư và thương mại của Đảng, Nhà nước, Chính phủ Việt Nam.
Nội dung khảo sát tập trung vào bốn khía cạnh chính: Mức độ tiếp cận thông tin về FTA của doanh nghiệp; tình hình tuân thủ các quy định pháp luật nội luật hóa từ cam kết FTA; hiệu quả các chương trình, chính sách hỗ trợ doanh nghiệp tận dụng FTA; và việc triển khai các cam kết phát triển bền vững tại địa phương, đồng thời ghi nhận các khó khăn, vướng mắc mà doanh nghiệp đang gặp phải.
Chỉ số tổng hợp FTA Index là điểm số tổng hợp của 4 chỉ số thành phần theo thang điểm 10 và tổng hợp thành thang điểm 40. Kết quả cho thấy tỉnh có điểm số tổng hợp cao nhất là 34,90 điểm, trong khi tỉnh có điểm số thấp nhất chỉ đạt 14,49 điểm. Giá trị trung bình của điểm số tổng hợp là 26,20 điểm và giá trị trung vị là 20,40 điểm.