Phóng viên Báo Công Thương đã có cuộc trao đổi với ông Nguyễn Ánh Dương - Phó Giám đốc Sở Công Thương Hà Nội - xung quanh vấn đề này.
Hà Nội đầu tàu của cả nước về thủ công mỹ nghệ
- TP. Hà Nội đang đóng vai trò như thế nào trong việc phát triển và xuất khẩu ngành thủ công mỹ nghệ của Việt Nam, thưa ông?
Ông Nguyễn Ánh Dương: TP. Hà Nội là trung tâm lớn về sản xuất, phát triển và xuất khẩu ngành thủ công mỹ nghệ, với hơn 1.000 làng nghề, trong đó nhiều làng nghề tiêu biểu cấp quốc gia như Bát Tràng, Vạn Phúc, Tràng Sơn, Quất Động, Phú Vinh, Hà Thái. Những làng nghề này không chỉ góp phần nâng cao vị thế của thủ công mỹ nghệ Việt Nam trên bản đồ xuất khẩu thế giới mà còn tạo ra những sản phẩm đậm bản sắc văn hóa, đáp ứng nhu cầu thị trường quốc tế.

Công tác quảng bá, xúc tiến thương mại sản phẩm thủ công mỹ nghệ đang được Hà Nội đẩy mạnh triển khai. Ảnh: Nguyễn Hạnh
Trong những năm gần đây, kim ngạch xuất khẩu thủ công mỹ nghệ của Việt Nam luôn nằm trong nhóm 10 mặt hàng có giá trị xuất khẩu cao nhất và duy trì tốc độ tăng trưởng ổn định. Các sản phẩm thủ công Việt Nam hiện diện tại 163 quốc gia và vùng lãnh thổ, trong đó nhiều thị trường khó tính như Liên minh châu Âu, Hoa Kỳ, Nhật Bản, Hàn Quốc đã ghi nhận uy tín và chất lượng, thể hiện khả năng thích ứng và hội nhập sâu rộng của ngành.
Các doanh nghiệp, hợp tác xã hoạt động trong lĩnh vực thủ công mỹ nghệ của Việt Nam nói chung, Hà Nội nói riêng đã từng bước chuyển đổi tư duy từ sản xuất truyền thống sang tiếp cận thị trường hiện đại. Nhiều đơn vị chú trọng thiết kế, kết hợp công nghệ và nguyên liệu địa phương để tạo ra những sản phẩm vừa giàu bản sắc văn hóa vừa đáp ứng thị hiếu quốc tế. Đồng thời, các hội chợ chuyên ngành, triển lãm đa lĩnh vực gắn với văn hóa, du lịch và các chương trình kết nối B2B quốc tế đã được tổ chức thành công, tạo dấu ấn chuyên nghiệp trong xúc tiến thương mại sản phẩm thủ công Hà Nội.
Bên cạnh những kết quả tích cực, ngành thủ công mỹ nghệ đang đối diện với nhiều thách thức. Thứ nhất, yêu cầu khắt khe từ thị trường quốc tế không chỉ về chất lượng mà còn về truy xuất nguồn gốc, tiêu chuẩn lao động, an toàn môi trường và trách nhiệm xã hội. Thứ hai, cạnh tranh gay gắt từ các quốc gia có hệ sinh thái thủ công mạnh như Thái Lan, Ấn Độ, Indonesia, Peru, với các chiến lược thương hiệu và kênh phân phối toàn cầu bài bản. Thứ ba, gia tăng các rào cản phi thuế quan, kỹ thuật và phi truyền thống trong thương mại quốc tế đòi hỏi các doanh nghiệp và hợp tác xã phải thay đổi phương thức hoạt động.
- Hà Nội đã triển khai những giải pháp gì để đồng hành và nâng cao năng lực cho các doanh nghiệp, đặc biệt là ngành thủ công mỹ nghệ, thưa ông?
Ông Nguyễn Ánh Dương: Trước thực tế đó, Sở Công Thương Hà Nội xác định nhiệm vụ trọng tâm là đồng hành và nâng cao năng lực cho doanh nghiệp, đặc biệt trong các ngành hàng thủ công mỹ nghệ, thông qua các giải pháp xúc tiến thương mại.
Thời gian qua, TP. Hà Nội đã tổ chức nhiều sự kiện quan trọng nhằm hỗ trợ các hội, hiệp hội, hộ sản xuất và nghệ nhân quảng bá, giới thiệu sản phẩm thủ công mỹ nghệ ra thị trường quốc tế. Các sự kiện tiêu biểu bao gồm hội chợ Ambiente tại Đức, Tokyo Gift Show tại Nhật Bản.

Ông Nguyễn Ánh Dương, Phó Giám đốc Sở Công Thương Hà Nội. Ảnh: Nguyên Trang
Từ nay đến cuối năm, thành phố tiếp tục tạo cơ hội cho các nghệ nhân và hộ kinh doanh tham gia Triển lãm Global Source tại Hồng Kông (Trung Quốc) và Tokyo Gift Show tại Nhật Bản, thể hiện định hướng chiến lược mở rộng thị trường quốc tế cho các sản phẩm thủ công mỹ nghệ Hà Nội.
Song song với các hoạt động xúc tiến thương mại truyền thống, Hà Nội đẩy mạnh chuyển đổi số, mở rộng kênh phân phối và hỗ trợ doanh nghiệp địa phương tiếp cận thị trường toàn cầu. Các sản phẩm thủ công không chỉ là hàng hóa mà còn là biểu tượng văn hóa Việt Nam trên thị trường quốc tế. Mục tiêu cuối cùng của các hoạt động này không chỉ là quảng bá sản phẩm thông qua những câu chuyện văn hóa độc đáo, mà còn kết nối giao thương, góp phần nâng cao giá trị kinh tế cho địa phương và đất nước.
Mở rộng không gian trưng bày, kết nối thủ công mỹ nghệ ra toàn cầu
- Chuyển đổi số và xây dựng cơ sở dữ liệu về làng nghề OCOP sẽ mang lại lợi ích gì cho quảng bá, kết nối giao thương, thưa ông?
Ông Nguyễn Ánh Dương: Hiện nay, việc trưng bày và quảng bá sản phẩm thủ công mỹ nghệ tại Hà Nội vẫn chưa tương xứng với tiềm năng của 1.350 làng nghề và làng có nghề trên địa bàn. Sản phẩm của các làng nghề chưa tiếp cận đầy đủ đến đông đảo người dân, du khách, đặc biệt là khách quốc tế. Trước thực tế này, Sở Công Thương Hà Nội đang tìm kiếm một địa điểm lớn hơn, phù hợp, nhằm tổ chức các hoạt động trưng bày thường xuyên, với quy mô sản phẩm không chỉ dừng ở vài trăm mà có thể lên tới hàng ngàn sản phẩm trong thời gian tới.
Trong bối cảnh chuyển đổi số, ứng dụng công nghệ thông tin trở thành yếu tố then chốt để quảng bá và kết nối giao thương hiệu quả. Hiện Sở Công Thương đang xây dựng cơ sở dữ liệu về làng nghề OCOP và công nghiệp nông thôn, bao gồm các sản phẩm gốm sứ, sơn son thếp vàng, khảm trai và đồ gỗ mỹ nghệ.
Đồng thời, từ năm 2026, sở dự kiến triển khai các triển lãm ảo. Bởi việc trưng bày trực tiếp tại Điểm trưng bày, giới thiệu và quảng bá sản phẩm OCOP Thủ đô - số 176 Quang Trung, phường Quang Trung, quận Hà Đông, TP. Hà Nội chỉ khoảng 400 sản phẩm, nhưng trên nền tảng trực tuyến, số lượng sản phẩm giới thiệu sẽ không giới hạn, với điều kiện đảm bảo chất lượng, nguồn gốc rõ ràng và được hội đồng đánh giá thông qua. Cách làm này giúp người tiêu dùng toàn cầu tiếp cận dễ dàng, đồng thời tạo cơ hội kết nối giao thương và nâng cao giá trị sản phẩm.
Sở Công Thương cũng kêu gọi các hiệp hội làng nghề, nghệ nhân đồng hành, chia sẻ và hỗ trợ triển khai các hoạt động. Mục tiêu cuối cùng là đưa sản phẩm thủ công mỹ nghệ Việt Nam đến tay người tiêu dùng trên toàn thế giới, đồng thời quảng bá các giá trị văn hóa, lịch sử của đất nước và dân tộc Việt Nam ra tầm quốc tế.
Xin cảm ơn ông!
Với 1.350 làng nghề trong đó có trên 800 làng nghề thủ công mỹ nghệ đang tạo việc làm cho trên 1 triệu lao động với thu nhập bình quân từ 4,5 - 6 triệu đồng/người/tháng. Theo báo cáo từ các xã, phường, tổng doanh thu từ 337 làng nghề truyền thống và các làng có nghề đạt trên 24.000 tỷ đồng/năm.