Lãi suất tiền gửi tiếp tục hạ vào cuối năm?

(Banker.vn) Thanh khoản hệ thống dồi dào, tín dụng tăng mạnh, tỷ giá còn biến động… Tất cả đang tạo nên những ẩn số cho lãi suất tiền gửi cuối năm.
  • Lãi suất tiền gửi tiếp tục tăng, Ngân hàng Nhà nước chỉ đạo ‘nóng’
  • Lãi suất tiền gửi dưới 6 tháng tối đa chỉ 5,25%/năm
  • Cuộc đua huy động vốn: Thêm 5 ngân hàng tăng lãi suất tiền gửi

Thanh khoản dồi dào

Những tháng gần đây, thị trường tiền tệ ghi nhận sự dịch chuyển đáng chú ý của mặt bằng lãi suất. Từ lãi suất liên ngân hàng, lãi suất huy động cho đến lãi suất cho vay, các chỉ số đều phản ánh sự tác động đồng thời của nhiều yếu tố như chính sách điều hành của Ngân hàng Nhà nước, biến động từ kinh tế thế giới và xu hướng dòng vốn dịch chuyển. Tâm điểm câu hỏi được đặt ra là liệu lãi suất tiền gửi có tiếp tục hạ thêm vào cuối năm 2025? Trong bối cảnh thanh khoản hệ thống đang khá dồi dào và áp lực từ tỷ giá có dấu hiệu hạ nhiệt.

Báo cáo thị trường tiền tệ của Công ty Chứng khoán MB (MBS) cho thấy, tháng 8 chứng kiến sự đảo chiều rõ rệt trên thị trường liên ngân hàng. Sau khi Ngân hàng Nhà nước quay lại hút ròng từ cuối tháng 7, lãi suất qua đêm có lúc vọt lên 6,4%/năm, mức cao nhất trong 5 tuần. Nhưng ngay sau đó, xu hướng này sớm chững lại. Trong tháng đó, Ngân hàng Nhà nước đã bơm ra hơn 361.000 tỷ đồng qua kênh thị trường mở (OMO) với kỳ hạn từ 7 đến 91 ngày, song lượng vốn đáo hạn lên tới 386.100 tỷ đồng, khiến ròng cả tháng 7 Ngân hàng Nhà nước hút về hơn 25.200 tỷ đồng.

Tuy nhiên, thanh khoản hệ thống vẫn dư thừa, thể hiện ở việc lãi suất qua đêm lao dốc, chạm đáy 1,6%/năm vào ngày 28/8, mức thấp nhất trong hai tháng. Đến cuối tháng 8, nhu cầu chi tiêu cận dịp Quốc khánh kéo lãi suất qua đêm nhích lên 3,8%/năm, các kỳ hạn 1 tuần đến 1 tháng xoay quanh mốc 4,2 - 5,2%/năm.

Lãi suất huy động của các ngân hàng thương mại lại giữ ổn định. Ảnh: Duy Minh

Trái với biến động mạnh mẽ trên liên ngân hàng, lãi suất huy động của các ngân hàng thương mại lại giữ ổn định. Tính đến cuối tháng 8, lãi suất kỳ hạn 12 tháng tại nhóm ngân hàng tư nhân đạt 4,89%/năm, giảm nhẹ 0,16 điểm % so với đầu năm, trong khi nhóm ngân hàng quốc doanh duy trì 4,7%/năm. Đáng chú ý, mặt bằng lãi suất cho vay cũng giảm theo. Đến cuối tháng 8, lãi suất cho vay bình quân còn 6,38%/năm, thấp hơn 0,56 điểm % so với cuối 2024.

Theo các chuyên gia của MBS, đằng sau sự ổn định ấy là yếu tố thanh khoản. Chỉ tính riêng trong tháng 6 - 7, Ngân hàng Nhà nước đã bơm ròng hơn 156.900 tỷ đồng, tạo dư địa để các ngân hàng duy trì lãi suất huy động ở mức thấp. Cùng với đó, tín dụng tăng trưởng mạnh. Đến 29/8, dư nợ tín dụng toàn hệ thống đạt hơn 17,46 triệu tỷ đồng, tăng 11,82% so với cuối 2024, tương đương mức tăng 20,6% so với cùng kỳ.

Nhìn về triển vọng, MBS cho rằng lãi suất huy động sẽ chịu áp lực từ tốc độ tăng trưởng tín dụng cao khi Ngân hàng Nhà nước cho phép nâng thêm chỉ tiêu tín dụng. Song Ngân hàng Nhà nước cũng kiên trì yêu cầu các tổ chức tín dụng tiết giảm chi phí, đồng bộ giải pháp để giữ ổn định và phấn đấu giảm lãi suất huy động, nhằm tạo dư địa tiếp tục hạ lãi suất cho vay.

Tác động từ quốc tế cũng là yếu tố quan trọng. Quyết định hạ 0,25 điểm % lãi suất của Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed) và khả năng tiếp tục hạ thêm trong các kỳ họp tới, đang làm giảm áp lực tỷ giá, qua đó giúp môi trường lãi suất trong nước có thêm dư địa duy trì ở mức thấp. Theo dự báo, lãi suất huy động kỳ hạn 12 tháng của nhóm ngân hàng tư nhân có thể giảm về 4,7% vào cuối năm 2025, mức giảm nhẹ nhưng mang nhiều ý nghĩa biểu tượng trong điều hành.

Liên quan tới lãi suất, trước đó, khối phân tích của Ngân hàng UOB cũng đưa ra nhận định: Với triển vọng tăng trưởng khả quan trong nửa cuối năm 2025 và áp lực trên tỷ giá của đồng VND, những yếu tố này sẽ hạn chế khả năng Ngân hàng Nhà nước (NHNN) nới lỏng chính sách tiền tệ. Do đó, dự báo NHNN sẽ giữ nguyên lãi suất tái cấp vốn ở mức 4,50%. Trong trường hợp điều kiện kinh doanh và thị trường lao động suy giảm mạnh, NHNN có thể cân nhắc hạ lãi suất tái cấp vốn về mức thấp kỷ lục trong đại dịch là 4,00%.

Tỷ giá, chính sách và kịch bản lãi suất cuối năm ra sao?

Trong khi lãi suất cho thấy dấu hiệu ổn định, thị trường ngoại hối lại diễn biến phức tạp. Tháng 8, chỉ số sức mạnh đồng USD (DXY) trượt dốc về 97,7 điểm, thấp hơn 10,6% so với đầu năm. Nhưng bất chấp xu hướng này, tỷ giá USD/VND trong nước vẫn tăng do nhu cầu ngoại tệ dâng cao, nhất là khi doanh nghiệp đẩy mạnh nhập khẩu nguyên liệu cho mùa sản xuất cuối năm. Tâm lý găm giữ USD trong bối cảnh chính sách tiền tệ nới lỏng cũng góp phần khiến tỷ giá leo thang.

Tỷ giá USD/VND trong nước vẫn tăng do nhu cầu ngoại tệ dâng cao. Ảnh: Duy Minh

Để ổn định thị trường, NHNN đã bán ra khoảng 1,5 tỷ USD trong hai ngày 25 - 26/8 qua hợp đồng kỳ hạn 180 ngày có hủy ngang. Động thái này vừa trấn an tâm lý, vừa giữ dư địa cho dự trữ ngoại hối. Sau can thiệp, tỷ giá tạm hạ nhiệt nhưng nhanh chóng tăng trở lại. Cuối tháng 8, tỷ giá liên ngân hàng đứng ở 26.345 VND/USD, tăng 3,5% so với đầu năm; tỷ giá tự do 26.685 VND/USD, trong khi tỷ giá trung tâm giảm nhẹ 0,04% xuống 25.240 VND/USD.

Các chuyên gia MBS chỉ ra bốn yếu tố duy trì áp lực lên tỷ giá là chênh lệch lãi suất VND/USD vẫn cao ngay cả khi Fed giảm lãi suất; nhu cầu nhập khẩu tăng do thuế 0% với hàng hóa Mỹ; dòng vốn FDI chậm lại vì chờ chính sách rõ ràng và chênh lệch giá vàng trong nước và thế giới vẫn lớn. Với bối cảnh này, tỷ giá trung bình năm 2025 được dự báo dao động 26.600 - 26.750 VND/USD, tăng 4,5 - 5% so với đầu năm.

Dù vậy, triển vọng dài hạn vẫn có điểm sáng. Ngân hàng UOB dự báo Fed sẽ có thêm hai lần cắt giảm lãi suất trong tháng 10 và 12, đưa Dollar Index về 93,9 điểm vào 2026, đồng nghĩa xu hướng suy yếu của đồng bạc xanh sẽ tiếp diễn. Với Việt Nam, UOB dự báo tỷ giá VND/USD sẽ dần giảm về 26.000 VND/USD vào quý III/2026.

Từ góc nhìn trong nước, ông Đinh Đức Quang, Giám đốc Khối Kinh doanh tiền tệ, UOB Việt Nam, cho rằng, mức tăng tỷ giá 4% từ đầu năm phù hợp với bối cảnh vĩ mô. Ông nhận định mục tiêu điều hành tỷ giá trong biên độ 5 - 6%/năm là hợp lý, thay vì giữ quá chặt ở mức 2 - 3% như trước đây. Sự linh hoạt này giúp chính sách tỷ giá thích ứng với biến động quốc tế, đồng thời đảm bảo ổn định dòng vốn trong nước.

Liên quan đến lãi suất, ông Quang dự báo NHNN sẽ giữ nguyên lãi suất tái cấp vốn ở mức 4,5%. Trường hợp kinh tế có dấu hiệu suy yếu, mức này có thể giảm về 4%, nhưng đây không phải kịch bản cơ sở. Với mục tiêu tăng trưởng 8 - 10% và lạm phát trung bình 4%, lãi suất huy động 5%, cho vay ngắn hạn 6 - 7%, trung dài hạn 8 - 9% được đánh giá là cân đối.

Ở góc nhìn khác, TS. Nguyễn Đức Độ (Học viện Tài chính) lưu ý rằng việc giảm mạnh lãi suất cho vay trong những tháng cuối năm là không dễ. Nhu cầu vốn cao buộc ngân hàng phải giữ lãi suất huy động đủ hấp dẫn để hút tiền gửi. Đồng thời, rủi ro tỷ giá và lạm phát vẫn hiện hữu, khiến dư địa hạ lãi suất không còn nhiều. Theo ông, Fed cắt giảm lãi suất chỉ tác động ngắn hạn, còn về trung - dài hạn, lãi suất trong nước vẫn chịu áp lực lớn từ nhu cầu vốn và quỹ đạo tăng trưởng.

Những phân tích này được củng cố bằng các con số thực tế. Đến giữa tháng 9, NHNN tiếp tục điều chỉnh tỷ giá trung tâm theo xu hướng giảm, trong khi lãi suất VND trên liên ngân hàng duy trì mức thấp. Lãi suất qua đêm ngày 19/9 là 3,92%/năm, lãi suất 1 tuần 4,28%/năm, đều giảm so với tuần trước. Theo TS. Cấn Văn Lực, mặt bằng lãi suất hiện nay là ổn định, đủ thấp để hỗ trợ tăng trưởng nhưng cũng đủ an toàn để tránh rủi ro bất ổn tài chính.

Thực tế, NHNN đã chỉ đạo các tổ chức tín dụng đẩy mạnh ứng dụng công nghệ, tiết giảm chi phí, nhằm duy trì lãi suất tiền gửi ở mức hợp lý và tạo điều kiện giảm lãi suất cho vay. Đến 10/8, lãi suất cho vay bình quân các khoản mới của ngân hàng thương mại chỉ còn 6,4%/năm, giảm 0,5 điểm % so với cuối 2024. Nhiều ngân hàng lớn tái khẳng định cam kết thực hiện nghiêm túc chỉ đạo của Chính phủ và NHNN, giữ ổn định mặt bằng lãi suất, đồng thời mở rộng các gói tín dụng ưu đãi để hỗ trợ doanh nghiệp và người dân.

Như vậy, nhìn về cuối năm 2025, kịch bản nhiều khả năng là lãi suất huy động giữ ổn định, có thể giảm nhẹ nhưng không đáng kể. Dư địa chính sách của NHNN vẫn còn, song được sử dụng một cách thận trọng để cân bằng mục tiêu kép: vừa bảo đảm cung ứng vốn cho nền kinh tế, vừa duy trì ổn định vĩ mô. Sự ổn định ấy không chỉ trấn an người gửi tiền mà còn giúp doanh nghiệp an tâm lập kế hoạch sản xuất, kinh doanh, tạo nền tảng để bước vào năm 2026 với kỳ vọng tăng trưởng cao hơn.

Theo số liệu mới nhất được NHNN công bố, tiền gửi của dân cư tại các tổ chức tín dụng đến hết tháng 6 đạt 7,694 triệu tỷ đồng, tăng 8,91% so với cuối năm 2024. Riêng trong tháng 6, tiền gửi cư dân đã tăng thêm 91.498 tỷ đồng. Tháng 5 liền trước, tiền gửi nhóm này cũng tăng thêm 65.427 tỷ đồng.

Tiền gửi của khối tổ chức kinh tế đạt hơn 8,104 triệu tỷ đồng, tăng 5,7% so với cuối năm 2024 và tăng thêm hơn 362.825 tỷ đồng chỉ trong tháng 6. Tháng 5 trước đó, tiền gửi doanh nghiệp cũng đã tăng thêm 116.370 tỷ đồng.

Như vậy, trong tháng 6, cá nhân và tổ chức kinh tế "rót thêm" hơn 450.000 tỷ đồng vào hệ thống ngân hàng. Tháng 5 liền trước, hệ thống ngân hàng cũng có thêm hơn 181.000 tỷ đồng. Con số này ở tháng 4 là 172.000 tỷ đồng và tháng 3 là 262.000 tỷ đồng. Tổng tiền của cá nhân và tổ chức kinh tế tại hệ thống ngân hàng sau nửa năm đạt 15,8 triệu tỷ đồng, lập kỷ lục mới.

 

 

Ngân Thương
Theo: Báo Công Thương
    Bài cùng chuyên mục