1. Những chỉ báo về thị trường bất động sản Trung Quốc trong thời gian gần đây
Sau hai thập kỷ tăng trưởng bùng nổ, sự tồn tại của các công ty bất động sản Trung Quốc trở nên mong manh hơn bao giờ hết trong chiến dịch 03 lằn ranh của Chính phủ Trung Quốc đó là: (i) Tỷ lệ nợ phải trả trên tài sản dưới 70%; (ii) Tỷ lệ nợ ròng trên vốn chủ sở hữu dưới 100%; và (iii) Tiền mặt phải lớn hơn hoặc bằng với nợ ngắn hạn. Việc ban hành những chính sách này nhằm kiềm chế các công ty dựa nhiều vào vay nợ để phát triển.
Những khó khăn tài chính liên miên của các chủ đầu tư, cộng thêm các hạn chế chống Covid-19 của Chính phủ Trung Quốc, đã khiến cho các dự án đầu tư bất động sản bị ngưng trệ, chính điều này làm cho người mua nhà lựa chọn giải pháp an toàn là tạm dừng việc thanh toán các khoản vay mua nhà. Điều này làm cho các chủ đầu tư bất động sản đã khó khăn lại càng khó khăn hơn, cứ như vậy một vòng lặp xuất hiện.
Trước những bất ổn của thị trường bất động sản, nhu cầu mua nhà mới ở Trung Quốc đã giảm dần đều. Một cuộc khảo sát hằng quý của Ngân hàng Trung ương Trung Quốc (PBoC) gần đây nhất cho thấy chỉ có 16,9% người dân ở nước này có ý định mua nhà trong thời gian tới, mức thấp nhất kể từ con số 16,3% ghi nhận vào quý 3/2016.
Theo khảo sát của Wind Information, bắt đầu từ đầu năm 2022, PBoC đã triển khai các biện pháp quan trọng để thúc đẩy thị trường bất động sản, bao gồm giảm lãi suất vay mua nhà. Trong những tháng gần đây, nhiều thành phố ở Trung Quốc đã nới lỏng chính sách nhằm hỗ trợ việc mua nhà. Tuy nhiên, ngay từ tháng 4/2022, doanh số thị trường địa ốc Trung Quốc hằng tháng đã giảm ít nhất 25% so với cùng kỳ năm ngoái. Giá nhà bình quân tại 100 thành phố Trung Quốc đã gần như không tăng trong vòng 01 năm trở lại đây.
Việc các chủ đầu tư chậm thanh toán hóa đơn cho các nhà cung cấp của các chủ đầu tư dự án phát triển đã khiến cho các nhà cung cấp bắt đầu từ chối thanh toán các khoản vay ngân hàng. Những ngân hàng đã cho các chủ đầu tư bất động sản vay khó thu được nợ do các chủ đầu tư không có tiền để trả nợ, nay cộng với việc các nhà cung cấp không thanh toán, làm cho khó khăn của ngân hàng tăng lên gấp bội… Sức ép này có thể tiếp tục gia tăng đối với các ngân hàng nếu tình trạng người mua nhà ngừng trả nợ không được quản lý tốt và lan thành rủi ro hệ thống.
Những diễn biến này đặt ra tình thế tiến thoái lưỡng nan đối với Chính phủ Trung Quốc, về việc nên “giải cứu” đối tượng nào khi cuộc khủng hoảng địa ốc trở nên căng thẳng hơn. Chỉ cần một số đối tượng vay nợ được cứu, những người khác ngay lập tức có thể đe dọa ngừng trả nợ. Nếu chấp nhận cứu tất cả, ngân sách nhà nước sẽ chịu áp lực lớn. Nếu không cứu, vòng xoáy vỡ nợ có thể xảy ra vì ngày càng có nhiều đối tượng vay tiền không trả nợ. Mới đây nhất thì Chính phủ Trung Quốc sẽ thành lập một quỹ bất động sản có quy mô lên tới 300 tỷ Nhân dân tệ (tương đương 44 tỷ USD), nhằm giúp các nhà phát triển địa ốc của nước này vượt qua cuộc khủng hoảng nợ hiện nay.
Câu chuyện của thị trường bất động sản Trung Quốc làm chúng ta liên tưởng đến đại khủng hoảng năm 2008 tại Mỹ mà căn nguyên là việc bong bóng giá nhà được hình thành từ năm 2006 vỡ tung, tạo nên những khoản nợ xấu khổng lồ, đánh sập hoạt động của các ngân hàng vốn đang ôm nhiều khoản vay được thế chấp bằng đất động sản. Giá nhà giảm liên tiếp trong 6 năm sau khi lập đỉnh, ngân hàng vỡ nợ, công ty xây dựng phá sản, kinh tế thế giới bị tác động tiêu cực suốt 10 năm dẫn đến khủng hoảng tài chính 2007 - 2008 - “thảm họa” kinh tế lớn nhất kể từ Đại suy thoái 1929.
Điều này đặt ra cho các cơ quan quản lý tại Việt Nam, cần đánh giá kỹ lưỡng các vấn đề nội tại của thị trường này để có các giải pháp căn cơ đảm bảo thị trường phát triển bền vững và tránh những cú sốc tác động vào nền kinh tế vừa hồi phục hậu đại dịch Covid-19.
2. Thực trạng thị trường bất động sản Việt Nam.
2.1. Tổng quan về thị trường bất động sản Việt Nam
Trong 06 đặc điểm nêu trên, có 02 đặc điểm (v) và (vi) là những đặc điểm cực kỳ quan trọng mà bất cứ tổ chức hay cá nhân nào liên quan đến lĩnh vực bất động sản cần đặc biệt lưu tâm.
2.2.Thực trạng thị trường bất động sản Việt Nam
Nguồn: Hội Môi giới bất động sản Việt
Nhìn vào Hình 1 có thể thấy, có sự chuyển dịch về cơ cấu nguồn cung thị trường bất động sản qua các năm theo hướng tăng dần nguồn cung về nhà thấp tầng và đất nền, trong khi giảm dần nguồn cung về căn hộ bình dân và căn hộ chung cấp.
Để có cái nhận xét toàn diện hơn, chúng ta cùng nhìn lại thị trường bất động sản tại Việt Nam trong 15 năm qua theo Biểu đồ 1:
Nhìn vào Biểu đồ 1 ta nhận thấy, giai đoạn 2005 - 2010 là giai đoạn mà thị trường bất động sản tương đối ổn định, sau đó thị trường giảm nhẹ vào 2011. Đến năm 2012, thị trường bất động sản giảm mạnh với mức sâu nhất là âm 1,18%. Những năm sau đó, thị trường bất động sản tăng dần lên, thị trường đạt đỉnh với mức tăng trưởng nhất là 4,61% năm 2019. Sang năm 2020, thị trường lại giảm mạnh do tác động tiêu cực của đại dịch Covid-19 mới mức tăng trưởng chỉ đạt 2,33%. Năm 2021, thị trường năm 2021 đã có dấu hiệu hồi phục với mức tăng trưởng là 2,56%.
Tín dụng bất động sản hiện nay có dấu hiệu tăng trưởng nhanh. Theo số liệu thống kê của Ngân hàng Nhà nước (NHNN): Đối với tín dụng lĩnh vực bất động sản, đến tháng 6/2022, đã đạt trên 2,36 triệu tỷ đồng, tăng 14,07% so với cuối năm 2021, chiếm 20,74% tổng dư nợ tín dụng toàn hệ thống (cùng kỳ năm 2021 tăng 8,2%, chiếm 19,9%). Trong đó, tín dụng đối với bất động sản kinh doanh tăng 8,19%, chiếm 33% dư nợ tín dụng; tín dụng bất động sản phục vụ mục đích tự sử dụng tăng 17,2%, chiếm 67% dư nợ tín dụng lĩnh vực này.
Đối với lĩnh vực bất động sản, nhìn vào Biểu đồ 2 có thể nhận thấy, tỷ lệ nợ xấu tín dụng bất động sản luôn cao hơn tỷ lệ nợ xấu của nền kinh tế, đó là vào các năm 2017, 2018, 2019 và 2021 với mức bình quân là 0,73%, trong đó mức chênh lệch cao nhất là vào năm 2018 với độ chênh là: 1,76%. Đến ngày 30/6/2022, nợ xấu lĩnh vực bất động sản có nhiều biến động, lên tới 36,4 nghìn tỷ đồng, tăng 5% so với 31/12/2021 về số tuyệt đối và tỷ lệ nợ xấu là 1,67%.
3. Một số khuyến nghị
Qua các phân tích trên có thể thấy, thị trường bất động sản Việt Nam có một số nét tương đồng với thị trường bất động sản Trung Quốc. Do đó, tác giả khuyến nghị một số giải pháp nhằm hướng đến sự phát triển ổn định, bền vững thị trường bất động sản trong thời gian tới:
Thứ nhất, tiếp tục điều hành chính sách tiền tệ linh hoạt và thận trọng, nhất là khi triển khai gói hỗ trợ lãi suất 2% theo Nghị định số 31/2022/NĐ-CP ngày 20/5/2022 của Chính phủ về hỗ trợ lãi suất từ ngân sách nhà nước đối với khoản vay của doanh nghiệp, hợp tác xã, hộ kinh doanh. Nếu hạ thấp tiêu chuẩn cho vay sẽ gây ra đổ vỡ mang tính hệ thống từ thị trường tiền tệ sang thị trường vốn, rút kinh nghiệm từ những vấn đề của thị trường bất động sản tại Trung Quốc.
Thứ hai, việc kiểm soát chặt kênh tín dụng ngân hàng cũng như phát hành Trái phiếu doanh nghiệp" data-glossary-english="Corporate Bond" data-glossary-def="Chứng khoán nợ do doanh nghiệp phát hành để huy động vốn.">trái phiếu doanh nghiệp bất động sản cần có lộ trình và kế hoạch, tránh việc giảm đột ngột, sẽ tạo hiệu ứng “lao dốc” như thị trường Trung Quốc; chỉ hạn chế dòng vốn vào các phân khúc đầu cơ, các phân khúc khác không phục vụ nhu cầu nhà ở thực sự của người dân.
Thứ ba, Nhà nước cần hoàn thiện các chính sách để kiểm soát chặt chẽ chất lượng trái phiếu của các doanh nghiệp nói chung và doanh nghiệp bất động sản nói riêng. Cân nhắc xác định các tỷ lệ cần thiết đối với ba chỉ tiêu của doanh nghiệp bất động sản đó là: (i) Tỷ lệ tổng nợ phải trả/tổng tài sản (không bao gồm các khoản trả trước và doanh thu chưa thực hiện); (ii) Tỷ lệ thanh toán ròng (nợ vay ròng/vốn chủ sở hữu); (iii) Tỷ lệ tiền mặt/nợ vay ngắn hạn.
Thứ tư, xây dựng các công cụ lượng hóa, để theo dõi, đánh giá, dự báo của thị trường bất động sản; thanh kiểm tra toàn diện các dự án huy động vốn khi chưa đủ điều kiện huy động và áp chế tài để xử lý một cách mạnh mẽ và quyết liệt. Xây dựng khung phí phạt cao đối với các dự án treo, dự án chậm triển khai.
Thứ năm, hoàn thiện cơ chế gắn với quy hoạch và định giá quyền sử dụng đất theo giá thị trường thông qua đấu thầu. Xem xét chuyển đổi, thu hồi các dự án chậm triển khai, dự án không khả thi của các chủ đầu tư sang triển khai các dự án nhà xã hội.
Đối với các tổ chức tín dụng là đơn vị trực tiếp cho các doanh nghiệp bất động sản và các chủ đầu tư vay, tác giả khuyến nghị các giải pháp sau:
Một là, thường xuyên rà soát, đánh giá tình hình hoạt động, tình hình tài chính, khả năng trả nợ của các khách hàng có dư nợ tín dụng lĩnh vực bất động sản lớn, để có biện pháp xử lý phù hợp, nhằm hạn chế tối đa rủi ro phát sinh.
Hai là, kiểm soát chặt chẽ hoạt động đầu tư trái phiếu doanh nghiệp với mục đích liên quan đến xây dựng, kinh doanh bất động sản hoặc tăng quy mô vốn của tổ chức phát hành hoạt động trong lĩnh vực xây dựng, kinh doanh bất động sản.
Ba là, tăng cường trích lập dự phòng rủi ro đối với các khoản nợ xấu đặc biệt là mức 3, 4 và 5. Lành mạnh hóa cơ cấu tài sản, giảm tỷ lệ nợ xấu về mức thấp nhất theo quy định của NHNN.
Bốn là, xem xét cho vay đối với các dự án đầu tư bất động sản phục vụ nhu cầu nhà ở xã hội.
TS. Vũ Hồng Thanh (Viện ĐT&NC BIDV)

