Mục tiêu tăng trưởng 2 con số giai đoạn 2026-2030: Cần cuộc "cách mạng" về cơ cấu vốn
(Banker.vn) Theo các nhà quản lý và chuyên gia tại phiên chuyên đề Tài chính – Ngân hàng với chủ đề “Huy động và sử dụng hiệu quả các nguồn lực tài chính cho mục tiêu tăng trưởng kinh tế giai đoạn 2026 – 2030” của Diễn đàn Kinh tế Việt Nam 2025, triển vọng 2026 diễn ra sáng ngày 16/12, để đạt mục tiêu tăng trưởng GDP 2 con số, Việt Nam cần một cuộc “cách mạng” về cơ cấu vốn, giảm tải áp lực cho hệ thống ngân hàng bằng cách khơi thông mạnh mẽ thị trường vốn và các định chế đầu tư chuyên nghiệp.

Tín dụng ngân hàng và định hướng chính sách vĩ mô
Phát biểu khai mạc phiên chuyên đề, Phó Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) Phạm Thanh Hà cho biết, Đảng và Nhà nước đã đặt ra mục tiêu tăng trưởng 8% trở lên trong năm 2025 và mức tăng trưởng 2 con số trong giai đoạn 2026 – 2030, hướng tới nhóm nước thu nhập trung bình cao vào năm 2030 và nhóm nước thu nhập cao vào năm 2045.
Phó Thống đốc nhấn mạnh rằng đây là những mục tiêu chiến lược, thể hiện quyết tâm và khát vọng phát triển của dân tộc. Để hiện thực hóa điều này, yêu cầu cấp thiết là nền kinh tế phải đạt tốc độ tăng trưởng cao liên tục, ổn định và bền vững trong giai đoạn phát triển tới. Trong đó, mục tiêu tăng trưởng 2 con số có ý nghĩa vô cùng quan trọng, tạo tiền đề vững chắc trong việc thu hẹp nhanh khoảng cách với các nước đi trước; kết hợp với nâng cao năng lực tự chủ và hiệu quả hội nhập kinh tế, qua đó khẳng định được vị trí của Việt Nam trên trường quốc tế.
Để hiện thực hóa mục tiêu này, ngay từ đầu năm 2025, Đảng và Nhà nước đã ban hành nhiều Nghị quyết quan trọng, trong đó có các Nghị quyết là “Bộ tứ trụ cột”, gồm: Nghị quyết 57-NQ/TW về đột phá phát triển khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số; Nghị quyết 59-NQ/TW về hội nhập quốc tế; Nghị quyết 66-NQ/TW về đổi mới công tác xây dựng và thi hành pháp luật; Nghị quyết 68-NQ/TW về phát triển kinh tế tư nhân.
Về phía cơ quan quản lý tài chính, Thứ trưởng Bộ Tài chính Đỗ Thành Trung nhận định mục tiêu tăng trưởng kinh tế 2 con số đòi hỏi sự thay đổi căn bản trong tư duy hành động cũng như cách thức huy động, phân bổ và sử dụng nguồn lực.
Theo Thứ trưởng, phương châm là lấy nội lực làm chiến lược lâu dài, ngoại lực là yếu tố quan trọng, thường xuyên và mang tính đột phá. Việc huy động đủ vốn là nhiệm vụ lớn, song phân bổ đúng trọng tâm, sử dụng hiệu quả và minh bạch để tạo ra giá trị gia tăng cao còn quan trọng hơn. Chính sách tài khóa cần tiếp tục đóng vai trò kiến tạo tăng trưởng dài hạn, ưu tiên chi ngân sách cho đầu tư phát triển và bảo đảm an sinh xã hội, đồng thời phối hợp chặt chẽ với chính sách tiền tệ để bảo đảm ổn định vĩ mô.
Đi sâu vào vai trò của kênh dẫn vốn chủ lực hiện nay, bà Hà Thu Giang, Vụ trưởng Vụ Tín dụng các ngành kinh tế (NHNN) cho biết, bám sát các chủ trương của Đảng và Nhà nước, ngành Ngân hàng đã triển khai đồng bộ nhiều giải pháp về tiền tệ, tín dụng. Tính đến ngày 27/11/2025, dư nợ tín dụng đạt trên 18,2 triệu tỷ đồng, tăng 16,56% so với cuối năm 2024 và tăng gần gấp đôi so với đầu giai đoạn vừa qua.
Cơ cấu tín dụng đã chuyển dịch phù hợp với cơ cấu ngành kinh tế, tập trung vào các lĩnh vực ưu tiên và động lực tăng trưởng. Cụ thể, tín dụng lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn chiếm khoảng 23%; doanh nghiệp nhỏ và vừa chiếm khoảng 19%. Đáng chú ý, tín dụng đối với lĩnh vực doanh nghiệp ứng dụng công nghệ cao và công nghiệp hỗ trợ có tốc độ tăng trưởng cao, bình quân giai đoạn vừa qua tăng lần lượt là 17,51% và 19,91%. Bên cạnh đó, các tổ chức tín dụng cũng tích cực triển khai chính sách cơ cấu lại thời hạn trả nợ, giữ nguyên nhóm nợ, tạo điều kiện cho 1,3 triệu khách hàng được cơ cấu nợ với giá trị nợ gốc, lãi khoảng 1 triệu tỷ đồng.
Tuy nhiên, Vụ trưởng Vụ Tín dụng các ngành kinh tế cũng chỉ ra những khó khăn và thách thức lớn. Sức ép cung ứng vốn cho nền kinh tế của hệ thống ngân hàng vẫn rất lớn trong bối cảnh thị trường tài chính phát triển chưa cân xứng. Nhu cầu vốn trung, dài hạn cho các dự án, công trình trọng điểm quốc gia là rất lớn, tạo áp lực cho các tổ chức tín dụng về rủi ro kỳ hạn. Nguyên nhân là do nguồn vốn chính để các tổ chức tín dụng thực hiện cho vay chủ yếu là tiền gửi có kỳ hạn ngắn, chiếm tới 80% tổng tiền gửi. Ngoài ra, việc triển khai một số chương trình tín dụng đặc thù còn gặp vướng mắc, đơn cử như Chương trình cho vay nhà ở xã hội, nhà ở công nhân theo Nghị quyết 33/NQ-CP gặp khó khăn do nguồn cung nhà ở xã hội còn hạn chế.
Để hỗ trợ mục tiêu tăng trưởng hai con số trong giai đoạn 2026-2030, bà Hà Thu Giang cho biết sẽ tiếp tục rà soát, hoàn thiện khung pháp lý và đẩy mạnh các chương trình tín dụng theo chỉ đạo của Chính phủ. Một trong những nhiệm vụ trọng tâm là phối hợp với Bộ Tài chính xây dựng Nghị định về hỗ trợ lãi suất 2%/năm cho các doanh nghiệp tư nhân, hộ kinh doanh vay vốn thực hiện dự án xanh, tuần hoàn và áp dụng tiêu chuẩn ESG. Đồng thời, ngành Ngân hàng tiếp tục đẩy mạnh các chương trình tín dụng cho lĩnh vực lúa gạo chất lượng cao vùng Đồng bằng sông Cửu Long, đầu tư hạ tầng điện, giao thông và công nghệ chiến lược.
Giải pháp khơi thông thị trường vốn và tái cấu trúc nguồn lực
Bên cạnh kênh tín dụng, các chuyên gia tại diễn đàn đã tập trung phân tích sâu về sự cần thiết phải phát triển thị trường vốn và đa dạng hóa nguồn lực đầu tư để giảm tải cho hệ thống ngân hàng, đảm bảo sự phát triển bền vững của nền kinh tế.

Phát biểu tại phiên chuyên đề, ông Nguyễn Quốc Hùng, Phó Chủ tịch kiêm Tổng Thư ký Hiệp hội Ngân hàng Việt Nam cho biết, hệ thống ngân hàng thời gian qua đã nỗ lực rất lớn trong việc cung ứng vốn cho nền kinh tế. Tuy nhiên, nếu tiếp tục dựa chủ yếu vào tín dụng ngân hàng, rủi ro đối với hệ thống sẽ ngày càng gia tăng, nhất là trong những giai đoạn cao điểm như cuối năm.
Ông Nguyễn Quốc Hùng cũng lưu ý, mặt bằng lãi suất thời gian tới có khả năng điều chỉnh, qua đó tác động đến hoạt động kinh doanh và chi phí đầu tư của doanh nghiệp. Đồng thời, trong bối cảnh các ngân hàng đang từng bước hướng tới các chuẩn mực an toàn cao hơn như Basel III, bài toán cân đối nguồn lực để vừa hỗ trợ tăng trưởng, vừa đáp ứng yêu cầu an toàn theo thông lệ quốc tế ngày càng trở nên thách thức. Do đó, việc chuyển dịch cơ cấu đầu tư, tập trung nhiều hơn vào sản xuất - kinh doanh thay vì các lĩnh vực mang tính đầu cơ là yêu cầu cấp thiết để bảo đảm tăng trưởng bền vững.
Từ thực tế trên, việc kết nối và bổ trợ giữa vốn ngân sách thông qua đầu tư công, với vốn tín dụng ngân hàng được nhìn nhận là yếu tố then chốt, Phó Chủ tịch kiêm Tổng Thư ký Hiệp hội Ngân hàng Việt Nam cho rằng, vốn ngân sách thông qua đầu tư công cần đồng hành với vốn ngân hàng, tạo lực đỡ cho doanh nghiệp sản xuất – kinh doanh, qua đó góp phần hiện thực hóa mục tiêu tăng trưởng cao và bền vững, đồng thời hỗ trợ ổn định kinh tế vĩ mô.
TS. Cấn Văn Lực, Chuyên gia Kinh tế trưởng BIDV, Thành viên Hội đồng tư vấn chính sách của Thủ tướng Chính phủ đã đưa ra mô hình tiếp cận mới cho giai đoạn tới. Ông đề xuất Việt Nam cần chuyển dịch mô hình phát triển từ dựa nhiều vào vốn và lao động sang dựa vào khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo và tăng năng suất. Thay vì cách tiếp cận tuần tự, TS. Cấn Lực kiến nghị thực hiện đồng thời chiến lược "3i": Investment (Đầu tư) - Infusion (Tiếp nhận và phổ biến công nghệ) - Innovation (Đổi mới sáng tạo).
Về nhu cầu vốn, TS. Cấn Văn Lực phân tích, theo dự báo để đạt mức tăng trưởng GDP trung bình 9-10% trong giai đoạn 2026-2030, quy mô vốn đầu tư toàn xã hội cần đạt khoảng 39% GDP. Tuy nhiên, cơ cấu cung ứng vốn hiện nay đang mất cân đối. Tính đến cuối năm 2024, quy mô tín dụng ngân hàng trên GDP của Việt Nam đạt 135,7%, thuộc nhóm cao trong khu vực (so với Thái Lan 148%, Indonesia 36,4%) và dự kiến sẽ tăng lên mức khoảng 147% vào cuối năm 2025.
TS. Cấn Văn Lực chỉ ra các điểm nghẽn chính bao gồm: thể chế hệ thống tài chính chưa hoàn thiện; hiệu quả tín dụng chính sách chưa cao; hiệu quả đầu tư còn thấp, chất lượng tăng trưởng cần quan tâm hơn...
Để giải quyết, Chuyên gia Kinh tế trưởng BIDV đề xuất 8 nhóm giải pháp đột phá. Trong đó, cần tập trung phát triển thị trường tài chính cân bằng, ưu tiên thị trường vốn và thị trường phái sinh; sớm vận hành thí điểm thị trường carbon, trung tâm tài chính quốc tế và thị trường tài sản mã hóa; quyết tâm nâng hạng thị trường chứng khoán theo lộ trình để giảm áp lực lên tín dụng ngân hàng...
TS. Cấn Văn Lực cũng kiến nghị thành lập các quỹ chuyên biệt như Quỹ hỗ trợ chuyển đổi xanh, Quỹ đầu tư mạo hiểm, Quỹ đổi mới sáng tạo để hỗ trợ doanh nghiệp.
Từ góc nhìn của các định chế đầu tư, bà Nguyễn Hoài Thu, Phó Tổng Giám đốc Công ty Cổ phần Quản lý Quỹ VinaCapital cho rằng, quy mô thị trường vốn còn khiêm tốn, chưa thay thế được vai trò dẫn vốn trung - dài hạn của hệ thống ngân hàng. Theo số liệu đưa ra, quy mô thị trường cổ phiếu Việt Nam năm 2024 đạt khoảng 62% GDP, thấp hơn đáng kể so với các nước trong khu vực như Thái Lan (104%) hay Malaysia (93%). Quy mô thị trường Trái phiếu doanh nghiệp" data-glossary-english="Corporate Bond" data-glossary-def="Chứng khoán nợ do doanh nghiệp phát hành để huy động vốn.">trái phiếu doanh nghiệp cũng chỉ đạt 11% GDP, mức rất khiêm tốn so với Thái Lan (27%) hay Hàn Quốc (75%).
Một vấn đề cốt lõi được đại diện VinaCapital chỉ ra là cấu trúc nhà đầu tư trên thị trường chứng khoán Việt Nam đang thiếu sự tham gia của các nhà đầu tư tổ chức. Hiện tại, nhà đầu tư cá nhân Việt Nam chiếm tới 85% khối lượng giao dịch trung bình ngày, trong khi con số này ở Mỹ chỉ là 18% và các nước khu vực như Thái Lan là 43%, Malaysia là 28%. Về cơ cấu sở hữu trên thị trường cổ phiếu, phần sở hữu thông qua các quỹ quản lý chuyên nghiệp tại Việt Nam chỉ chiếm 3,5%, trong khi phần sở hữu khác (ban lãnh đạo, nhà đầu tư chiến lược, nhà đầu tư cá nhân) chiếm tới 96,5%.
Tình trạng này dẫn đến thị trường thiếu ổn định và phụ thuộc nhiều vào tâm lý nhà đầu tư cá nhân. Thêm vào đó, tỷ lệ sở hữu của nhà đầu tư nước ngoài trên sàn HOSE đã chạm mức thấp nhất trong 5 năm qua, giảm từ mức trên 23% năm 2020 xuống còn 15,6% vào tháng 7/2025.
Về quy mô các quỹ đầu tư, tổng tài sản các quỹ mở % GDP tại Việt Nam thấp nhất khu vực, chỉ chiếm 6% GDP, trong khi chỉ số này ở Thái Lan là 21%, Malaysia là 53%. Quỹ hưu trí bổ sung tự nguyện mới chỉ có hơn 24.000 người tham gia với tổng giá trị quản lý hơn 1.500 tỷ đồng, một con số rất nhỏ so với tiềm năng và nhu cầu an sinh xã hội.
Để thị trường vốn thực sự trở thành kênh dẫn vốn trung và dài hạn hiệu quả, bà Nguyễn Hoài Thu đề xuất một số giải pháp, như: Việc nâng hạng thị trường bởi FTSE là khởi đầu quan trọng, cần tiếp tục nâng cấp để đạt chuẩn Mới Nổi của MSCI; nâng cao năng lực quản lý thị trường, tính minh bạch, củng cố niềm tin nhà đầu tư ngoại; nhận thức đúng vai trò của ngành Quỹ đối với thị trường vốn và nền kinh tế...
Các ý kiến tại diễn đàn đều thống nhất rằng để đạt được mục tiêu tăng trưởng kinh tế đầy tham vọng trong giai đoạn 2026-2030, Việt Nam cần thực hiện đồng bộ các giải pháp từ cải cách thể chế, cân bằng thị trường tài chính, giảm tải cho hệ thống ngân hàng đến việc khơi thông mạnh mẽ dòng vốn từ các định chế đầu tư chuyên nghiệp trong và ngoài nước. Chỉ khi huy động và sử dụng hiệu quả mọi nguồn lực tài chính, nền kinh tế mới có thể bứt phá và đạt được các mục tiêu phát triển đã đề ra.
Minh Hoàng

