Nghị quyết 68-NQ/TW: Khắc phục ‘5 thiếu’ của kinh tế tư nhân Nghị quyết 68-NQ/TW: ‘Cởi’ chiếc áo đã chật cho kinh tế tư nhân Gỡ rào cản, giao trọng trách để kinh tế tư nhân phát triển bứt phá |
Để thúc đẩy kinh tế tư nhân phát triển mạnh mẽ, ngày 04/5/2025, Bộ Chính trị đã ban hành Nghị quyết số 68 - NQ/TW. Nghị quyết đã đánh dấu những bước đột phá trong tư duy, nhận thức từ việc xác định vị trí, vai trò, tầm quan trọng của kinh tế tư nhân trong tổng thể nền kinh tế quốc gia cho đến việc đề ra những định hướng chiến lược, mục tiêu cụ thể và các giải pháp nhằm phát huy tối đa vai trò của khu vực kinh tế tư nhân.
Tạo lập môi trường và thể chế thuận lợi cho sự phát triển bình đẳng giữa các thành phần kinh tế
Trước hết phải khẳng định sự thay đổi mang tính đột phá trong nhận thức về vị trí, vai trò của kinh tế tư nhân trong nền kinh tế trị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta của Nghị quyết 68 thể hiện ở chỗ: Từ chỗ khẳng định sự tồn tại của kinh tế tư nhân gắn với kinh tế nhiều thành phần (Đại hội VI), một bộ phận cấu thành quan trọng của nền kinh tế quốc dân (Nghị quyết Trung ương 5 khóa IX năm 2002 về tiếp tục đổi mới cơ chế, chính sách, khuyến khích và tạo điều kiện phát triển kinh tế tư nhân), một động lực quan trọng để phát triển kinh tế (Nghị quyết Trung ương 5 khóa XII năm 2017 về phát triển kinh tế tư nhân trở thành một động lực quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa) thì đến Nghị quyết 68 của Bộ Chính trị, kinh tế tư nhân được xác định là “một động lực quan trọng nhất của nền kinh tế quốc gia”.
Sự chuyển biến trong tư duy lý luận của Đảng về kinh tế tư nhân phản ánh cả nhận thức đúng đắn về vai trò của thành phần kinh tế này, đồng thời khẳng định năng lực đổi mới tư duy lý luận trên nền tảng tổng kết thực tiễn quá trình phát triển, hoàn thiện nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta.
![]() |
Mục tiêu phát triển kinh tế tư nhân chính thức được cụ thể hóa trong Nghị quyết 68. Ảnh minh họa |
Khẳng định kinh tế tư nhân là một động lực quan trọng nhất của nền kinh tế quốc dân, Nghị quyết 68 đặt ra yêu cầu xóa bỏ triệt để các định kiến, quan niệm lỗi thời và tư tưởng kỳ thị đối với khu vực kinh tế này, từ đó, tạo lập môi trường và thể chế thuận lợi cho sự phát triển bình đẳng giữa các thành phần kinh tế.
Theo đó, mục tiêu phát triển kinh tế tư nhân chính thức được cụ thể hóa trong Nghị quyết: Đến năm 2030: Phấn đấu có 2 triệu doanh nghiệp hoạt động trong nền kinh tế, 20 doanh nghiệp hoạt động/nghìn dân. Có ít nhất 20 doanh nghiệp lớn tham gia chuỗi giá trị toàn cầu. Tốc độ tăng trưởng bình quân của kinh tế tư nhân đạt khoảng 10-12%/năm,đóng góp khoảng 55-58% GDP, khoảng 35-40% tổng thu ngân sách nhà nước, giải quyết việc làm cho khoảng 84-85% tổng số lao động; Tầm nhìn đến 2045: phấn đấu có ít nhất 3 triệu doanh nghiệp hoạt động trong nền kinh tế; đóng góp khoảng trên 60% GDP. Cùng với đó, Nghị quyết đã đề ra hệ thống nhiệm vụ, giải pháp cụ thể, đồng bộ và có tính khả thi cao, thể hiện rõ bước tiến mới trong tư duy và hành động so với các nghị quyết trước đây về phát triển kinh tế tư nhân, nhằm bảo đảm thực hiện thắng lợi các mục tiêu đã đề ra.
Cụ thể như: Trước hết, Nghị quyết đặt ra yêu cầu cầu các cấp ủy, chính quyền, cả hệ thống chính trị, cộng đồng doanh nghiệp, người dân phải nâng cao tinh thần đổi mới tư duy, thống nhất cao và nhất quán trong nhận thức về vị trí, vai trò của kinh tế tư nhân trong sự nghiệp phát triển đất nước.
Tiếp đó, Nghị quyết đề ra nhóm giải pháp đẩy mạnh cải cách, hoàn thiện nâng cao chất lượng thể chế, chính sách đã đi sâu, trực tiếp tháo gỡ tận gốc các điểm nghẽn nhất là về thể chế kìm hãm sự phát triển của kinh tế tư nhân trong suốt những năm qua. Một loạt những biện pháp mạnh mẽ được đưa ra từ cải cách thủ tục hành chính; cắt giảm điều kiện kinh doanh; số hóa toàn bộ quy trình; cho đến bảo vệ quyền sở hữu tài sản, quyền tự do kinh doanh, bảo đảm cạnh tranh bình đẳng và thực thi hợp đồng của kinh tế tư nhân… đều thể hiện quyết tâm chính trị cao độ của Đảng và Nhà nước trong việc “cởi trói”, tạo lập môi trường kinh doanh minh bạch, công bằng, hiện đại và kiến tạo thúc đẩy kinh tế tư nhân phát triển mạnh mẽ.
Theo đó, tất cả các cơ chế, chính sách được khẳng định là phải xây dựng trên cơ sở lấy người dân và doanh nghiệp làm trung tâm, làm chủ thể; xoay quanh việc phục vụ, tạo điều kiện thuận lợi cho người dân và doanh nghiệp.
Mở ra các cơ hội phát triển thực chất, dài hạn và bền vững cho khu vực kinh tế tư nhân
Dễ nhận thấy ở đây có sự đổi mới căn bản về tư duy khi doanh nghiệp tư nhân từ chỗ được coi là một đối tượng quản lý thì giờ đây được xác định là đối tác, cùng Nhà nước tham gia kiến tạo, phát triển đất nước. Cùng với đó là quyết tâm xóa bỏ cơ chế “xin - cho”, tư duy “không quản được thì cấm”, chuyển mạnh từ “tiền kiểm” sang “hậu kiểm”, tạo mọi thuận lợi để các doanh nghiệp tư nhân được tự do đầu tư phát triển kinh doanh tùy theo khả năng, năng lực của mình, không bị ràng buộc bởi các điều kiện kinh doanh đặc biệt được quy định chung chung trên cơ sở tăng cường kiểm tra, giám sát thông qua “hậu kiểm” và thanh tra để bảo đảm cạnh tranh bình đẳng, tuân thủ pháp luật.
Trong nhóm giải pháp này, một điểm mới cũng là điều được cộng đồng doanh nghiệp đặc biệt ủng hộ, đón nhận chính là việc phân tách rõ ràng giữa nhiệm cá nhân và trách nhiệm pháp nhân trong các sai phạm kinh tế cũng với việc xác lập chủ trương: ưu tiên áp dụng các biện pháp hành chính, dân sự, kinh tế đối với vi phạm và giải pháp hình sự chỉ được áp dụng khi các nỗ lực khắc phục hậu quả về kinh tế và bồi thường thiệt hại không mang lại hiệu quả. Chủ trương này thể hiện bước tiến lớn trong tư duy lập pháp và quản lý, giúp giảm thiểu rủi ro pháp lý, tạo môi trường kinh doanh an toàn, phù hợp hơn với thông lệ quốc tế đồng thời cũng được kỳ vọng sẽ tạo sự yên tâm, từ đó thúc đẩy hơn tính năng động, sáng tạo của khu vực kinh tế tư nhân, tăng sức hấp dẫn của môi trường đầu tư kinh doanh ở Việt Nam đối với các nhà đầu tư trong nước và ngoài nước.
Nhóm giải pháp về tiếp cận các nguồn lực đất đai, vốn, nhân lực chất lượng cao được Nghị quyết 68 tách thành nhóm giải pháp riêng (trong khi ở Nghị quyết số 10 tại Hội nghị Trung ương 5 khóa XII về phát triển kinh tế tư nhân trở thành một động lực quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, giải pháp này nằm chung trong nhóm giải pháp thứ 2 về “Tạo lập môi trường đầu tư, kinh doanh thuận lợi cho phát triển kinh tế tư nhân”). Đây cũng là một trong những điểm mới nổi bật của Nghị quyết 68, thể hiện rõ bước tiến trong tư duy, cách tiếp cận và quyết tâm của Đảng về việc tháo gỡ một trong những “nút thắt” lớn nhất cản trở sự phát triển của kinh tế tư nhân là vấn đề tiếp cận các nguồn lực phát triển, dỡ bỏ những rào cản “ngầm” trong chính sách và thực thi, đảm bảo quyền bình đằng thực chất, cạnh tranh công bằng giữa các thành phần kinh tế đúng tinh thần kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Với hàng loạt những biện pháp cụ thể, rõ ràng, có mục tiêu, trọng điểm nhằm: tăng cường cơ hội tiếp cận đất đai, mặt bằng sản xuất kinh doanh; đẩy mạnh và đa dạng hoá nguồn vốn; nâng cao chất lượng nguồn nhân lực cho kinh tế tư nhân… nhóm giải pháp này khi được triển khai thực hiện chắc chắn sẽ mở ra các cơ hội phát triển thực chất, dài hạn và bền vững cho khu vực kinh tế tư nhân.
Điểm mới tiếp theo trong Nghị quyết 68 liên quan đến các nhóm giải pháp phát triển kinh tế tư nhân đó là đưa ra giải pháp cụ thể về tăng cường kết nối giữa các doanh nghiệp tư nhân, doanh nghiệp tư nhân với doanh nghiệp nhà nước và doanh nghiệp FDI, mà đặc biệt là lần đầu tiên trong Nghị quyết của Đảng đưa ra nhóm giải pháp riêng cho doanh nghiệp tư nhân theo từng loại hình, quy mô - từ siêu nhỏ, nhỏ, hộ kinh doanh cho đến các doanh nghiệp lớn và vừa, các tập đoàn kinh tế tư nhân tầm cỡ khu vực và toàn cầu. Thực tế cho thấy, các doanh nghiệp trong khu vực kinh tế tư nhân có sự khác nhau rất nhiều trên các phương diện nhất là về quy mô, theo đó, cần có chính sách định hướng phát triển, và hỗ trợ khác nhau, không đồng nhất. Bởi thế, việc thiết kế chính sách theo quy mô doanh nghiệp như trong Nghị quyết 68 lần này đã cho thấy bước chuyển mạnh mẽ về cách tiếp cận theo sát với thực tiễn các doanh nghiệp tư nhân Việt Nam, từ đó góp phần thực thi hiệu quả nguyên tắc “bình đẳng trong tiếp cận chính sách” đồng thời giúp phân bổ nguồn lực đúng mục đích, hiệu quả hơn, hỗ trợ đúng đối tượng, đúng nhu cầu, tránh dàn trải và lãng phí.
Cùng với những nhóm giải pháp trên, Nghị quyết 68 cũng đặc biệt quan tâm đề xuất các nhóm giải pháp riêng với những biện pháp cụ thể về: Thúc đẩy khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số, chuyển đổi xanh, kinh doanh hiệu quả, bền vững trong kinh tế tư nhân trên tinh thần Nghị quyết số 57-NQ/TW, ngày 22/12/2024 của Bộ Chính trị về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia. Trong đó, không còn dừng lại ở việc khuyến khích các doanh nghiệp tư nhân đổi mới, nâng cao trình độ công nghệ như ở các Văn kiện, Nghị quyết trước đó, Nghị quyết 68 đã chuyển sang định hướng phát triển kinh tế tư nhân gắn với chuyển đổi số và chuyển đổi xanh như một yêu cầu tất yếu của quá trình phát triển theo chuẩn mực của nền kinh tế hiện đại. Đặc biệt, tiếp nối tinh thần của các Nghị quyết trước về phát triển kinh tế tư nhân, Nghị quyết 68 tiếp tục đưa ra các biện pháp yêu cầu, khuyến khích doanh nhân đề cao đạo đức kinh doanh, phát huy trách nhiệm xã hội đối với quốc gia, dân tộc. Tuy nhiên, điểm mới trong Nghị quyết 68 thể hiện ở chỗ lần đầu tiên vấn đề này được tách thành một nhóm giải pháp riêng, theo đó đặc biệt nhấn mạnh phải thúc đẩy mạnh mẽ tinh thần kinh doanh, tạo mọi điều kiện thuận lợi để doanh nhân tham gia quản trị đất nước. Vậy là, từ cách nhìn “doanh nghiệp là đơn vị kinh tế” chuyển sang tư duy coi “doanh nhân, doanh nghiệp là một trong những chủ thể quan trọng để phát triển quốc gia”.
Nghị quyết 68 đã đánh dấu bước phát triển quan trọng mang tính đột phá trong tư duy lý luận và chỉ đạo thực tiễn của Đảng đối với khu vực kinh tế tư nhân. Đây là bước đi quan trọng và kịp thời nhằm tháo gỡ các điểm nghẽn, khơi thông nguồn lực, tạo môi trường thuận lợi cho khu vực kinh tế tư nhân phát triển năng động, hiệu quả, bền vững và thực sự trở thành một động lực quan trọng nhất của nền kinh tế. |