Hội thảo có sự tham dự của đại diện các bộ, ngành, địa phương, hiệp hội, doanh nghiệp và các chuyên gia.
Phát biểu tại hội thảo, ông Lê Thanh Hải, Chánh Văn phòng Thường trực Ban Chỉ đạo 389 Quốc gia nhấn mạnh, tình hình sản xuất, buôn bán hàng giả hiện nay diễn biến phức tạp, thủ đoạn ngày càng tinh vi, có xu hướng chuyển dịch mạnh sang môi trường thương mại điện tử và xuyên biên giới. Trong bối cảnh đó, việc nghiên cứu, thống nhất nhận thức, hoàn thiện hệ thống pháp luật và đặc biệt là đẩy mạnh ứng dụng các giải pháp công nghệ trở nên cấp thiết hơn bao giờ hết.
Hội thảo tập trung vào bốn nhóm nội dung trọng tâm: Nhận thức chung về hàng giả; chế tài xử lý hành vi sản xuất, buôn bán hàng giả; cơ chế vận hành quỹ phòng, chống hàng giả; các giải pháp công nghệ trong công tác phòng chống. Những nội dung như đánh giá kết quả thực hiện nhiệm vụ sáu tháng đầu năm, quý III/2025 và các hội thảo trước đây đã được tổng hợp riêng, nên không lặp lại trong chương trình lần này.

Quang cảnh hội thảo.
Trình bày khái quát về quá trình hình thành khung pháp lý, ông Hải cho biết khái niệm “hàng giả” đã được quy định từ sớm trong pháp luật Việt Nam. Ngay từ Nghị định số 140-HĐBT ngày 25/4/1991 của Hội đồng Bộ trưởng (nay là Chính phủ) được ban hành, hàng giả đã được định nghĩa là những sản phẩm, hàng hóa được sản xuất trái pháp luật, có hình dáng, nhãn mác giống sản phẩm hợp pháp, hoặc không có giá trị sử dụng đúng với bản chất, công dụng của nó. Sau đó, Nghị định 57/NĐ-CP năm 1998 và Thông tư liên tịch số 10/2000/TTLT-BTM-BTC-BCA-BKHCNMT tiếp tục cụ thể hóa các dấu hiệu, nhóm hàng hóa bị coi là hàng giả, từ giả về chất lượng, công dụng đến giả nhãn hiệu, xuất xứ, tem, hóa đơn.
Hiện nay, quy định về hàng giả được đề cập trong nhiều văn bản pháp luật khác nhau như Bộ luật Hình sự (từ Điều 192 đến 195), Luật Dược (Điều 2, khoản 33, 34) và đặc biệt là Nghị định số 98/2020/NĐ-CP của Chính phủ về xử phạt vi phạm hành chính trong hoạt động thương mại, sản xuất, buôn bán hàng giả, hàng cấm và bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng. Tuy nhiên, điểm đáng chú ý là các quy định hiện hành chủ yếu mới dừng ở việc liệt kê hành vi và dấu hiệu nhận biết, chưa có một khái niệm chung, thống nhất về “hàng giả” có giá trị pháp lý cao.
Tăng cường quản lý thương mại điện tử
Trình bày tham luận tại hội thảo, ông Hoàng Ninh, Phó Cục trưởng Cục Thương mại điện tử và Kinh tế số (Bộ Công Thương) cho biết, thương mại điện tử tại Việt Nam đang phát triển mạnh mẽ, trở thành một trong những trụ cột của kinh tế số. Tuy nhiên, song hành với sự phát triển đó là những vấn đề đáng lo ngại, đặc biệt là tình trạng hàng giả, hàng nhái và xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ trên môi trường mạng. Thực trạng này gây thiệt hại cho người tiêu dùng, làm suy giảm niềm tin thị trường, ảnh hưởng đến doanh nghiệp chân chính và gây thất thu cho ngân sách Nhà nước.
Trước yêu cầu thực tiễn đó, được sự chỉ đạo của lãnh đạo Bộ Công Thương, Cục Thương mại điện tử và Kinh tế số đã xây dựng và trình Quốc hội ban hành Luật Thương mại điện tử, nhằm thay thế các nghị định hiện hành như Nghị định 52/2013/NĐ-CP... Dự thảo luật này được xây dựng với tư duy quản lý mới, chuyển từ bị động sang chủ động và quy định rõ trách nhiệm của toàn bộ hệ sinh thái thương mại điện tử thay vì chỉ tập trung vào người bán.

Ông Hoàng Ninh, Phó Cục trưởng Cục Thương mại điện tử và Kinh tế số trình bày tham luận tại hội thảo.
Thứ nhất, dự thảo luật nghiêm cấm trực tiếp các hành vi liên quan đến hàng giả, quy định rõ việc kinh doanh hoặc tạo điều kiện cho người khác kinh doanh hàng giả, hàng nhập lậu, hàng vi phạm quyền sở hữu trí tuệ, hàng không rõ nguồn gốc, xuất xứ.
Thứ hai, dự thảo nâng cao trách nhiệm của các chủ thể nền tảng. Các sàn thương mại điện tử, mạng xã hội có hoạt động thương mại phải thực hiện trách nhiệm “gác cổng”, kiểm soát nội dung hàng hóa, dịch vụ trước khi cho phép hiển thị, nhằm ngăn chặn hàng giả, hàng vi phạm sở hữu trí tuệ. Ngoài ra, luật cũng yêu cầu xác thực danh tính người bán qua VNID; với người nước ngoài, việc xác thực thực hiện qua giấy tờ chứng minh hoạt động kinh doanh hợp pháp – đây là giải pháp căn cơ để truy vết nguồn gốc, ngăn chặn tài khoản ảo.
Thứ ba, cơ chế thông báo, gỡ bỏ vi phạm được chuyển từ bị động sang chủ động. Đặc biệt, dự thảo quy định chủ nền tảng phải liên đới chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại nếu không thực hiện đầy đủ nghĩa vụ dẫn đến thiệt hại cho người mua. Đây là một chế tài kinh tế mạnh mẽ buộc doanh nghiệp đầu tư nghiêm túc vào hệ thống kiểm soát chất lượng.
Thứ tư, dự thảo mở rộng trách nhiệm của toàn bộ hệ sinh thái thương mại điện tử. Ví dụ, các doanh nghiệp logistics phải có cơ chế kiểm tra hồ sơ hàng hóa và từ chối vận chuyển hàng không rõ nguồn gốc.
Thứ năm, dự thảo quy định trách nhiệm quản lý với hoạt động livestream bán hàng – kênh đang bùng nổ hiện nay. Chủ nền tảng phải xác thực danh tính người livestream, có biện pháp ngăn chặn phát trực tiếp khi phát hiện vi phạm, nhằm bảo vệ người tiêu dùng trước hành vi quảng cáo gian dối, buôn bán hàng giả trên môi trường số...
Cần xử lý đúng bản chất hành vi
Ông Nguyễn Đức Lê, Phó Trưởng phòng Nghiệp vụ Quản lý thị trường, Cục Quản lý và Phát triển thị trường trong nước (Bộ Công Thương) cho biết, trong quá trình kiểm tra và xử lý, lực lượng chức năng gặp nhiều vướng mắc, chồng chéo trong quy định pháp luật, đặc biệt đối với các nhóm hàng nhạy cảm như thực phẩm chức năng, dược phẩm, dầu ăn.
Theo ông Lê, ranh giới giữa xử lý hành chính và hình sự trong các vụ việc sản xuất, buôn bán hàng giả rất mong manh. Nếu không xác định đúng bản chất, có thể bỏ lọt tội phạm hoặc xử lý chưa đúng mức; ngược lại, nếu chuyển sang hình sự không phù hợp, lại tạo áp lực cho cơ quan điều tra.
Từ thực tế đó, ông Lê cho rằng khái niệm “hàng giả” hiện nay đã đến lúc cần được thống nhất và luật hóa. “Chúng ta cần có một đạo luật mang tính phổ quát để làm căn cứ áp dụng thống nhất trong kiểm tra, xử lý, tránh những bất cập như hiện nay” – ông Lê nhấn mạnh.
Ông cho biết thêm, quá trình lấy ý kiến các bộ, ngành, địa phương và doanh nghiệp đã ghi nhận nhiều quan điểm khác nhau. Vì vậy, việc cân nhắc để đưa ra giải pháp hài hòa là rất cần thiết.
Tăng cường truy xuất nguồn gốc trong lĩnh vực dược phẩm
Ở lĩnh vực y tế, ông Tạ Mạnh Hùng, Phó Cục trưởng Cục Quản lý Dược (Bộ Y tế) nêu thực trạng, tỷ lệ thuốc không đạt chất lượng tại Việt Nam năm 2024 là 0,45%, tỷ lệ thuốc giả khoảng 0,1% trong tổng số hơn 38.000 mẫu kiểm nghiệm.
Theo ông Hùng, tình hình tội phạm liên quan đến dược phẩm giả vẫn xuất hiện, đặc biệt sau đại dịch Covid-19 khi nhu cầu chăm sóc sức khỏe tăng cao. “Thuốc giả không chỉ gây hại cho sức khỏe người bệnh mà còn làm mất niềm tin của người dân vào thuốc hợp pháp, tạo điều kiện cho các đường dây tội phạm xuyên quốc gia len lỏi vào thị trường” – ông cảnh báo.
Hiện nhiều doanh nghiệp dược trong nước đã dán tem chống hàng giả, in mã QR lên bao bì thuốc để người tiêu dùng quét truy xuất nguồn gốc. Trong thời gian tới, Cục Quản lý Dược sẽ tiếp tục phối hợp với các cơ quan chức năng và doanh nghiệp xây dựng quy định chặt chẽ hơn về phòng chống hàng giả, truy xuất nguồn gốc thuốc. Đồng thời, phối hợp với Bộ Công Thương và lực lượng Công an tăng cường kiểm tra, điều tra, truy quét tận gốc các cơ sở sản xuất và đầu mối kinh doanh thuốc giả.
Hội thảo lần này là dịp để các cơ quan quản lý, chuyên gia và doanh nghiệp cùng nhau chia sẻ kinh nghiệm, đề xuất giải pháp nhằm tăng cường hiệu quả công tác phòng chống hàng giả, bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng và xây dựng môi trường kinh doanh minh bạch, lành mạnh, bền vững.