Thông tư mới về quy tắc xuất xứ hàng hóa AKFTA: Doanh nghiệp cần lưu ý gì?

(Banker.vn) Bộ Công Thương vừa ban hành Thông tư 49/2025/TT-BCT quy định về quy tắc xuất xứ hàng hóa trong Hiệp định AKFTA, kế thừa, làm rõ các tiêu chí xác định nguồn gốc sản phẩm.
  • Hội nghị quy tắc xuất xứ trong AKFTA: Thống nhất tiêu chí xuất xứ đa số dòng hàng
  • Hàng xuất khẩu của Việt Nam sang Hàn Quốc đã tận dụng được ưu đãi từ AKFTA
  • Đề xuất sửa Biểu thuế nhập khẩu ưu đãi đặc biệt của Việt Nam thực hiện Hiệp định AKFTA

Bộ Công Thương vừa ban hành Thông tư số 49/2025/TT-BCT ngày 9/9/2025 quy định quy tắc xuất xứ hàng hóa trong Hiệp định Thương mại hàng hóa thuộc Hiệp định khung về Hợp tác kinh tế toàn diện giữa Chính phủ các nước thành viên Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á và Chính phủ Đại Hàn Dân Quốc (Hiệp định AKFTA).

Cụ thể, Thông tư gồm 4 Chương, 40 Điều và 04 Phụ lục kế thừa quy tắc xuất xứ hàng hóa trong khuôn khổ Hiệp định AKFTA đã ban hành tại Thông tư số 20/2014/TT-BCT ngày 25/6/2014 của Bộ trưởng Bộ Công Thương.

Thông tư quy định thực hiện Quy tắc xuất xứ trong Hiệp định Thương mại tự do ASEAN - Hàn Quốc (được sửa đổi, bổ sung bởi các Thông tư số 26/2018/TT-BCT ngày 14/9/2018, Thông tư số 13/2019/TT-BCT ngày 31/7/2019 và Thông tư số 04/2024/TT-BCT ngày 27/3/2024).

Thông tư số 49/2025/TT-BCT gồm 4 Chương, 40 Điều và 04 Phụ lục.

4 Chương của Thông tư gồm: Cách xác định xuất xứ hàng hóa; Quy định đối với một số hàng hóa đặc biệt; Chứng nhận và kiểm tra xuất xứ hàng hóa và C/O mẫu AK và Tờ khai bổ sung C/O mẫu AK.

Thông tư cũng quy định rõ về nguồn gốc xuất xứ hàng hóa theo VKFTA như: Hàng hóa có xuất xứ, hàng hóa có xuất xứ thuần túy, hàng hóa có xuất xứ không thuần túy...; quy tắc cụ thể các mặt hàng, quy định đối với một số mặt hàng hóa đặc biệt...

Trong đó, quy định hàng hóa có xuất xứ là hàng hóa nhập khẩu vào lãnh thổ của một nước thành viên được coi là có xuất xứ và đủ điều kiện hưởng ưu đãi thuế quan nếu hàng hóa đó đáp ứng một trong các quy định về xuất xứ .

Đơn cử, có xuất xứ thuần túy hoặc được sản xuất toàn bộ tại lãnh thổ của một Nước thành viên xuất khẩu theo quy định tại Điều 6 Thông tư 49; có xuất xứ không thuần túy hoặc không được sản xuất toàn bộ tại lãnh thổ của một nước thành viên xuất khẩu với điều kiện hàng hóa đó đáp ứng Điều 7 hoặc Điều 8 hoặc Điều 9 hoặc Điều 10 trong Thông tư 49

Đối với hàng hóa có xuất xứ thuần túy: Theo quy định tại điểm a khoản 1 của Điều 5 Thông tư 59, hàng hóa được coi là có xuất xứ thuần túy hoặc được sản xuất toàn bộ tại lãnh thổ của một nước thành viên trong các trường hợp sau:

Một là, cây trồng và các sản phẩm từ cây trồng được thu hoạch, hái hoặc thu lượm sau khi trồng tại nước thành viên đó.

Hai là, động vật sống được sinh ra và nuôi dưỡng tại nước thành viên đó.

Ba là, các sản phẩm chế biến từ động vật sống nêu tại khoản 2 Điều 6.

Bốn là, sản phẩm thu được từ săn bắn, đặt bẫy, đánh bắt, nuôi trồng thủy sản, thu lượm hoặc săn bắt tại nước thành viên đó.

Năm là, khoáng sản và các chất sản sinh tự nhiên khác chưa liệt kê từ khoản 1 đến khoản 4 Điều này được chiết xuất hoặc khai thác từ đất, nước, đáy biển hoặc dưới đáy biển của nước thành viên đó.

Sáu là, hải sản đánh bắt khai thác bằng tàu đã đăng ký và được phép treo cờ của nước thành viên đó và các sản phẩm từ biển khác do nước thành viên đó hoặc cá nhân của nước thành viên đó khai thác từ nước, đáy biển hoặc dưới đáy biển bên ngoài lãnh hải của nước thành viên đó.

Với điều kiện nước thành viên đó có quyền khai thác tài nguyên thiên nhiên từ nước, đáy biển và dưới đáy biển đó theo luật quốc tế.

Bảy là, hải sản đánh bắt và các sản phẩm từ biển khác khai thác từ vùng biển cả bằng tàu đã đăng ký và được phép treo cờ của Nước thành viên đó.

Tám là, sản phẩm được chế biến hoặc sản xuất ngay trên tàu chế biến đã đăng ký và được phép treo cờ của nước thành viên đó từ các sản phẩm nêu tại khoản 7 Điều 6.

Chín là, sản phẩm từ không gian vũ trụ do nước thành viên đó hoặc cá nhân của nước thành viên đó khai thác.

Mười là, vật phẩm thu nhặt từ nước thành viên đó nhưng không còn các chức năng ban đầu hoặc không sửa chữa hay khôi phục được mà chỉ phù hợp làm rác thải hoặc phục hồi một phần làm nguyên liệu thô hoặc sử dụng vào mục đích tái chế.

Mười một, phế thải và phế liệu thu được từ quá trình sản xuất tại nước thành viên đó hoặc sản phẩm đã qua sử dụng được thu nhặt tại nước thành viên đó chỉ phù hợp với làm nguyên liệu thô.

Mười hai, hàng hóa thu được hoặc được sản xuất tại lãnh thổ của nước thành viên xuất khẩu đó chỉ từ các sản phẩm nêu từ khoản 1 đến khoản 11 nêu trên.

Chi tiết Thông tư số 49/2025/TT-BCT xem tại đây.

Hoàng Giang
Theo: Báo Công Thương
    Bài cùng chuyên mục