Việt Nam 2021 - 2025: Thích ứng linh hoạt, nâng tầm vị thế quốc tế

(Banker.vn) Thích ứng linh hoạt, phục hồi kinh tế và khẳng định vị thế quốc tế của Việt Nam là những điểm nhấn nổi bật về tình hình kinh tế - xã hội 5 năm qua.
  • Chính phủ đề ra 10 giải pháp cho phát triển kinh tế - xã hội năm 2026
  • Phương án phân 6 vùng kinh tế - xã hội sau sáp nhập tỉnh, thành
  • Khi đường sắt trở thành 'động mạch' của phát triển kinh tế – xã hội

Chiều 12/11 tại Hà Nội, Cổng Thông tin điện tử Chính phủ tổ chức tọa đàm “Kinh tế - xã hội Việt Nam 2021 - 2025: Chống chịu và bứt phá”, nhằm tổng kết những điểm nổi bật và ấn tượng trong phát triển kinh tế - xã hội của Việt Nam 5 năm qua.

Tăng trưởng kinh tế là một điểm sáng nổi bật

Từ góc nhìn quốc tế, bà Ramla Khalidi, Trưởng Đại diện thường trú Chương trình Phát triển Liên hợp quốc (UNDP) tại Việt Nam, nhấn mạnh, mặc dù đối mặt nhiều thách thức toàn cầu, Việt Nam đã đạt được những tiến bộ vượt bậc. Đặc biệt, đất nước đã biết tận dụng các khủng hoảng, biến thách thức thành cơ hội phát triển, thể hiện rõ năng lực thích ứng và sức chống chịu đáng ghi nhận.

Các khách mời tham dự tọa đàm. Ảnh: VGP/Giang Thanh

Tăng trưởng kinh tế là một điểm sáng nổi bật, đạt mức trên 7% trong giai đoạn 2021-2025. Chỉ số Phát triển Con người (HDI) liên tục cải thiện, phản ánh tiến bộ toàn diện về đời sống, giáo dục và y tế. Bà Khalidi đặc biệt nhấn mạnh vai trò lãnh đạo mạnh mẽ và tầm nhìn chiến lược, giúp Việt Nam triển khai hiệu quả các chính sách phát triển kinh tế, đồng thời duy trì ổn định xã hội và thúc đẩy hội nhập quốc tế.

Về khả năng chống chịu của nền kinh tế, ông Phan Đức Hiếu, Ủy viên Ủy ban Kinh tế và Ngân sách Quốc hội, nhận định, năng lực nội tại của Việt Nam đã được cải thiện rõ rệt so với các giai đoạn trước. Nếu tăng trưởng GDP năm 2025 đạt 8%, bình quân giai đoạn này đạt khoảng 6,3%, vượt mức nhiều năm trước, dù phải đối mặt với nhiều khó khăn.

Quy mô nền kinh tế tăng từ 364 tỷ USD đầu năm 2021 lên khoảng 510 tỷ USD vào cuối năm 2025. Tổng kim ngạch xuất nhập khẩu và thặng dư thương mại được cải thiện rõ rệt, dự trữ ngoại hối và các chỉ số kinh tế vĩ mô cơ bản được kiểm soát ổn định, tạo nền tảng vững chắc cho phát triển bền vững.

Ông Hiếu đưa ra ba cú sốc kinh tế tiêu biểu mà Việt Nam đã vượt qua. Thứ nhất, đại dịch Covid-19, Việt Nam phản ứng nhanh, bảo vệ sức khỏe người dân, hỗ trợ doanh nghiệp và triển khai các chương trình phục hồi kinh tế hiệu quả.

Thứ hai, xu hướng đầu tư quay về nước sở tại (reshoring). Dù có lo ngại về thu hút FDI, thực tế Việt Nam vẫn là điểm đến hấp dẫn, dòng vốn nước ngoài tăng trưởng đều trong 5 năm qua.

Thứ ba, chính sách thuế quan của Mỹ, Việt Nam phản ứng linh hoạt; kim ngạch xuất khẩu sang Mỹ 9 tháng đầu năm vẫn đạt 112 tỷ USD, chứng minh khả năng ứng phó hiệu quả với biến động bên ngoài.

Ngoài ra, các chính sách an sinh xã hội như xóa nhà tạm, nhà dột và các mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững đã được triển khai hiệu quả, cho thấy năng lực điều hành và hoạch định chính sách của Việt Nam được kiểm chứng thực tiễn.

Lãnh đạo quyết liệt và tinh thần vượt khó

GS. TS. Vũ Minh Khương, giảng viên Trường Chính sách công Lý Quang Diệu – Singapore, nhận định giai đoạn 2020 - 2025 là một thời kỳ đặc biệt với nhiều biến chuyển bất ngờ trên mọi lĩnh vực. Tuy nhiên, Việt Nam đã vượt qua các thử thách ngoạn mục, kiên định mục tiêu đến năm 2025 chuẩn bị tiến vào kỷ nguyên mới, hướng tới trở thành quốc gia công nghiệp phát triển.

GS.TS. Vũ Minh Khương tham gia tọa đàm từ Singapore (ảnh chụp qua màn hình)

Ông Khương nhấn mạnh, thành quả quan trọng nhất là ba phẩm chất nổi bật của lãnh đạo Việt Nam, được ông tóm gọn bằng ba chữ “Q” gồm: Quả cảm, dám đối mặt khó khăn, đưa ra quyết định táo bạo; quyết liệt, khi đã đặt mục tiêu, thực hiện đến nơi đến chốn; quên mình, tập trung vì lợi ích chung, vượt lên lợi ích cá nhân. Những phẩm chất này không chỉ giúp Việt Nam vượt qua cú sốc mà còn là niềm tự hào khi giới thiệu đội ngũ lãnh đạo với cộng đồng quốc tế.

Về mặt vĩ mô, GS. TS. Khương đánh giá năng lực quản lý của Việt Nam rất mạnh, thể hiện qua sự phối hợp hiệu quả giữa các ngành, địa phương, doanh nghiệp và các trường đại học, tạo khát vọng lớn và vị thế xứng đáng trên trường quốc tế trong hai thập kỷ tới. Ngành công nghiệp trong nước cũng ghi nhận bước tiến mạnh mẽ. Sản phẩm Việt Nam ngày càng được thị trường quốc tế đánh giá cao, mở ra cơ hội xuất khẩu rộng lớn.

Mặc dù Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu đáng tự hào trong 5 năm qua, nhưng theo ông Phan Đức Hiếu, những thách thức phía trước vẫn còn rất lớn. Có ba điểm quan trọng cần lưu ý khi nhìn về tương lai.

Thứ nhất, các thách thức mới xuất hiện phần lớn do bối cảnh thay đổi và mục tiêu tăng trưởng ngày càng cao. Khi định hướng phát triển được nâng lên tầm cao mới, những khó khăn mới sẽ nảy sinh.

Thứ hai, chất lượng tăng trưởng là yếu tố then chốt.

Thứ ba, động lực cải cách cần được duy trì liên tục. Sức sống của nền kinh tế không chỉ dựa vào những kết quả hiện tại, mà còn phụ thuộc vào khả năng tiếp tục đổi mới, sáng tạo và quyết liệt trong tương lai.

Trong bối cảnh khu vực và quốc tế dự báo tiếp tục có nhiều diễn biến phức tạp, khó lường, GS.TS Vũ Minh Khương cho rằng, Việt Nam cần ưu tiên chiến lược cần chuyển từ tăng trưởng đơn thuần sang tiến hóa. Nếu chỉ tăng trưởng, quy mô mở rộng nhưng không đảm bảo sự phát triển bền vững và cộng hưởng; tiến hóa bao hàm tầm nhìn dài hạn, sự vượt bậc và ý thức trách nhiệm với tương lai.

Một điểm quan trọng thứ hai là chuyển từ tập trung giải quyết điểm nghẽn sang xử lý điểm xung yếu trong hệ thống. Chỉ tập trung vào điểm nghẽn sẽ giữ nguyên quỹ đạo cũ, chỉ nhanh hơn nhưng không tạo đột phá thực sự. Nếu xác định và tập trung vào các điểm xung yếu, Việt Nam có thể tạo ra quỹ đạo mới

Trong quá trình kiến tạo giá trị, GS.TS Khương lưu ý về sức mạnh tổng hợp của hệ thống. Việc kết hợp tổng lực, Việt Nam sẽ phát huy sức mạnh tiềm ẩn, tạo ra giá trị vượt trội. Kinh nghiệm từ Singapore hay Trung Quốc cho thấy, sức mạnh hệ thống có thể tạo ra hiệu ứng “1 cộng 1 bằng 11”, gia tăng lòng tin và giá trị cho toàn xã hội.

Để hiện thực hóa mô hình Nhà nước kiến tạo – phát triển, cần đi từ vòng tròn nội tiếp sang vòng tròn ngoại tiếp, tập trung vào ba trục chính. Thứ nhất, kinh tế thị trường và kinh tế tư nhân. Phát triển bộ máy nhà nước ưu tú, hỗ trợ kinh tế tư nhân và thị trường, tạo hiệu ứng “hai bàn tay vỗ vào nhau”.

Thứ hai, hội nhập quốc tế và nguồn lực con người. Khi hội nhập sâu, cần nâng cao năng lực thẩm thấu, sáng tạo và chất lượng nhân lực; nếu đội ngũ yếu, xuất khẩu và hội nhập sẽ không bền vững.

Thứ ba, phát triển hạ tầng đang rất tốt nhưng làm sao gắn kết hạ tầng và đặc biệt là xây dựng các thành phố trụ cột - thành phố toàn cầu. Việc phát triển hệ thống tàu điện ngầm tại Hà Nội và TP. Hồ Chí Minh tương tự các thành phố ở Trung Quốc thì trong vòng 10-15 năm sẽ thu hút dân cư và thúc đẩy phát triển mạnh mẽ.

GS. TS. Vũ Minh Khương, giảng viên Trường Chính sách công Lý Quang Diệu – Singapore khẳng định, Việt Nam đang sở hữu tiềm lực tổng hợp lớn. Nếu Chính phủ tiếp tục phát huy tinh thần quyết liệt như 5 năm vừa qua, giai đoạn 2025 - 2030 hoàn toàn có thể chứng kiến những bước tiến vượt bậc, trở thành mô hình phát triển được cả thế giới ghi nhận.

Nguyễn Hạnh
Theo: Báo Công Thương
    Bài cùng chuyên mục